TIN TỨC

Đỗ Nam Cao - Cô đơn và khắc khoải 

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-10 21:21:40
mail facebook google pos stwis
990 lượt xem

Trần Thế Tuyển

Những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng tôi cùng sống và chiến đấu trên chiến trường Miền Đông gian lao mà anh dũng. Nhà thơ Đỗ Nam Cao công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, còn tôi là lính chiến thuộc Công trường 5 (Sư đoàn 5). Rừng Miền Đông bạt ngàn, bom đạn tàn phá, chất độc hóa học trắng rừng, nhưng chúng tôi thường xuyên gặp nhau qua Đài Phát thanh Giải phóng và chương trình Phát thanh Quân Giải phóng miền Nam. Đôi khi, hành quân giữa khuya, nghe đọc bài hoặc ngâm thơ Đỗ Nam Cao trong chương trình văn nghệ, tiếp sức cho cánh lính trẻ chúng tôi xông lên phía trước.

 

Nhà thơ Đỗ Nam Cao

Trái đất tròn, năm 2003 từ báo Quân đội nhân dân tôi chuyển nghành về Bộ Văn hóa Thông tin. Cơ duyên, tôi và nhà thơ Đỗ Nam Cao sinh hoạt chung chi bộ báo chí thuộc Đảng bộ Khối cơ sở Bộ Văn hóa Thông tin tại Thành phố Hồ Chí Minh. 

Mới đây, nhân kỷ niệm năm thứ  12 năm ngày mất của nhà thơ Đỗ Nam Cao (2011-2023), tôi được nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn Tp HCM gửi tặng tập thơ “Hỡi cô cắt cỏ” của nhà thơ Đỗ Nam Cao và bảo, anh có thể viết về kỷ niệm với nhà thơ.

Đọc Hỡi cô cắt cỏ - tuyển tập thơ Đỗ Nam Cao, tôi như gặp lại người đồng nghiệp bậc đàn anh một thời. 

 

  NỖI CÔ ĐƠN 

 

Ai đó đã nói nỗi buồn, sự cô đơn là thuộc tính và quyền sở hữu của nhà thơ. Thơ là tiếng lòng là sự chưng cất của tâm hồn nên nỗi buồn càng sâu, sự cô đơn càng lâu sẽ là nguồn cảm hứng bật ra những vần thơ để đời của nhà thơ.

Tuyển thơ “Hỡi cô cắt cỏ” (**) của Đỗ Nam Cao dày 140 trang với trên 100 bài thơ tràn ngập nỗi cô đơn xen lẫn sự khắc khoải.

Cô đơn và nỗi buồn nên hiểu theo hướng mở. Đó không chỉ là nỗi cô đơn của nhà thơ vì cái riêng mà bao gồm cả cái chung, nhân tình thế thái.  Là chàng trai có dáng lãng tử, mái tóc lúc nào cũng rối bời, quăn tít, tốt nghiệp khóa 11 khoa ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đỗ Nam Cao cùng đồng đội vượt Trường Sơn vào chi viện cho chiến trường Nam Bộ. Trong đội ngũ điệp trùng, nhưng tâm hồn chàng lãng tử cử nhân văn chương này nặng nỗi buồn và sự cô đơn. Và đó chính là lý do ùa dâng những vần thơ. Đỗ Nam Cao không ngại, bày tỏ: 

 

Thơ tôi đã từng hứng khởi

Đã từng hát khúc hùng ca

Tôi bay lướt đỉnh hào khí

Trường Sơn ngút ngàn, mù xa. 

 

Và, nỗi buồn vì chiến tranh, chết chóc, tàn phá. Cô đơn vì thân phận con người trước binh đao khói lửa, nhà thơ bày tỏ các chiều kích cảm xúc: 

 

Để rồi từ từ đáp hạ

Đậu trên đỉnh mái nhà ta

Quê hương ôi rơm với rạ 

Mẹ cha vách bùn, cột tre.

        (Thơ tôi) 

 

Những câu thơ, bài thơ với ý tứ như thế ta gặp nhiều trong “Hỡi cô cắt cỏ”. Văn là người. Thơ là hình bóng, tâm hồn của người sinh ra nó. Nỗi cô đơn trong thơ Đỗ Nam Cao từ cái riêng thầm kín sang cái chung lan tỏa.

Có lúc nỗi buồn vu vơ của tác giả thấm chuyển sang người đọc:

 

Ngong ngóng người lại qua

Tìm một gương mặt biết

Dòng sông đời chảy xiết

Không ai chờ đợi ta 

                          (Không ai)

 

Không ai chờ đợi ta, đến chỉ một mình ta, nỗi cô đơn càng lạnh lẽo, da diết: 

 

Ai tìm kiếm khao khát

Một ai một kín thầm 

Ai đứng đó bồn chồn.

                 (Sân ga)

Và: 

 

Khóc một mình nuốt ực

Cười một mình, bật rên 

Một mình đi thâu đêm

Một mình.

                        (Một mình)

 

Phải cô đơn lắm mới viết được những câu thơ như thế. Như bậc tiền bối - ông hoàng thơ tình đã từng viết: “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Xuân Diệu).

 

Rõ ràng sự cô đơn, nỗi buồn là thuộc tính, đặc quyền của nhà thơ.

Từ nỗi buồn, sự cô đơn “không hiểu vì sao tôi buồn” ấy đến cái cụ thể thầm kín của riêng mình. Mặc cho dòng đời chảy xiết, nhà thơ có nỗi buồn riêng: 

 

Nghĩ cho cùng anh với em đều tốt 

Sao chúng mình không ở được cùng nhau 

Rồi anh sẽ yên nằm dưới cỏ 

Thì tình yêu chưa thể yên nằm.

                         (Ly hôn)

 

Câu thơ bước ra từ trái tim, từ thực tế phũ phàng như lý giải một cách triết lý về hiện thực. Tình yêu là một lĩnh vực. Còn đời sống vợ chồng lại là một lĩnh vực khác. Không phải hai người tốt sẽ sống ăn đời ở kiếp với nhau. Điều quan trọng nhất hai người tốt, cực tốt ấy có cùng nhịp đập trái tim? 

Đọc thơ Đỗ Nam Cao, người đọc, đặc biệt người đọc trong cuộc thấu hiểu nỗi buồn, nỗi cô đơn sâu kín, thầm lặng của nhà thơ. Và, không chỉ thế, hiểu thêm về số phận con người. Thực tế trên cõi đời này, không ai tốt đến quá tốt và không ai xấu đến quá xấu. Mọi vinh quang và hệ lụy đều có căn nguyên của nó. Đọc thơ Đỗ Nam Cao, người đọc thêm một lần chia sẻ, cảm thông. Đỗ Nam Cao có những câu thơ thấm đậm nhân văn, tình người, đặc biệt là tình yêu. 

Lặp lại:

Rồi anh sẽ yên nằm dưới cỏ 

Thì tình yêu chưa thể yên nằm.

 

Rõ ràng, Đỗ Nam Cao là lãng tử xứ Hà thành, nhưng đó là một chàng trai chung tình. Đã yêu, yêu đến tận cùng sự sống. Và, không chỉ khi sự sống vãn mãn mà còn mãi mãi: “anh nằm dưới cỏ, còn tình yêu chưa thể yên nằm”. Anh mãi mãi yêu em!

Viết đến đây, tôi không thể quên nụ cười của Đỗ Nam Cao mỗi lần nghiêm túc họp chi bộ cũng như mỗi lần thăng hoa “trà dư tửu hậu”.

Rõ ràng con người ta không chỉ đo giá trị bởi sự thành đạt về vật chất, danh vị mà phải chính bằng nhân cách và nhân văn. Hai yếu tố cơ bản tạo nên cốt cách, chân dung một con người.

 

NIỀM KHẮC KHOẢI

 

Từ tuyên ngôn về thơ, Đỗ Nam Cao nhất quán cách biểu đạt trong suốt quá trình sáng tác thi ca:

 

Thơ tôi lộn đầu xuống đất

Giơ chân lên đỡ sao trời 

Thơ tôi trái điều lộn hột 

Bao nhiêu tình chất phơi ngoài.

...

Thơ tôi đè nặng ngọn bút 

Nặng đè ngực nhức buốt tim

Vụt chói lòa là mất hút

Ngẩn ngơ em sợ hãi tìm.

                       (Thơ tôi) 

 

Thơ Đỗ Nam Cao là thế. Đậm nét nhất thông điệp của nhà thơ trong bài thơ cùng tên của tuyển tập thơ này - Hỡi cô cắt cỏ.

Hỡi cô cắt cỏ chiếm diện tích hơn 10 trang in trong tập sách có thể coi là trường ca (mini) mà Đỗ Nam Cao muốn gửi tặng mọi người.

 

Thông điệp tác giả muốn trao gửi cho người đọc nói chung và hậu thế nói riêng là: Mọi thứ có thể qua đi, tiền tài, danh vọng có thể qua đi. Chỉ có ký ức đẹp và tình người còn mãi. Ký ức đẹp là cây đa, bến nước, sân đình, là “Hỡi cô cắt cỏ”; ký ức đẹp đó là: 

 

Mưa rào rạch nước, cá rô

Tôi bơi ngược đến kiệt khô sức mình...

Áo tơi rủ xuống mặt đồng

Mẹ đi cấy mạ mãi còng cả lưng.

 

Đó là hình ảnh tạo nên dáng vóc một thời không chỉ của riêng tác giả mà của tất cả chúng ta, những người đã sống thời đại ấy.

Cái tình mà Đỗ Nam Cao muốn gửi gắm trong “Hỡi cô cắt cỏ” cũng khá đặc sắc, không lẫn vào đâu được:

 

Hỡi cô cắt cỏ trên trời 

Làm cho chú Cuội tuột rơi xuống làng

Nên tôi phải tự dối lòng

Nên tôi phải nói dối nàng của tôi

Đeo con cóc kiện ông giời 

Đeo con kiến kiện củ khoai làm gì.

 

Có thể nói khác với các bài thơ trước, Đỗ Nam Cao viết “Hỡi cô cắt cỏ” trong trạng thái thăng hoa của chàng lãng tử xứ Hà thành. Thể thơ đa dạng, mạch thơ lúc bay bổng, lúc trầm tư; chất dân gian, trữ tình thấm đậm đã truyền cảm hứng mãnh liệt đến người đọc.

Nỗi khắc khoải với kỷ niệm, ký ức một thời vốn là cái cớ, bệ đỡ, nguồn cảm hứng vô tận của  nhiều nhà thơ. Đỗ Nam Cao không ngoại lệ.

 

Đã quá mười mùa xuân Đỗ Nam Cao rời cõi tạm. Hương hồn nhà thơ đang phiêu du cùng các bận tiền nhân nơi viễn xứ. Cọp chết để da, người chết để tiếng. Hỡi cô cắt cỏ là tiếng lòng của Đỗ Nam Cao để lại cho chúng ta và hậu thế!.

 

Tp Hồ Chí Minh, đêm 3-10-2023

                             TTT

 

(**) NXB Sân khấu - 2021. 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hélène – con gái ông Tây Việt Minh
Bài của nhà văn Nguyễn Thanh
Xem thêm
Cô bé và đóa hoa hồng – Tạp bút của Võ Đào Phương Trâm
Chiếc xe đạp lộc cộc băng qua con đường đông đúc, lách qua những làn xe liên tục của Sài Gòn, cái dáng mỏng manh, độ chừng mười hai tuổi, bé nhỏ liêu xiêu trên chiếc xe đạp cà tàng, nghe cót két, hình như chiếc xe bị hư gì đó nên thấy nó đạp một cách cực nhọc hơn bình thường.
Xem thêm
Thành phố của lòng nhân ái - Ký của Nguyên Hùng
Ký dự thi “Thành phố tôi yêu, thành phố nghĩa tình” của Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Về Tiên Động nhớ Ngư Phong – Nguyễn Quang Bích
Ngư Phong là tên hiệu của thủ lĩnh miền Thao - Đà trong thời Cần Vương chống Pháp ở Bắc Kỳ. Ông tên thật là Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890). Đương thời ông được nhân dân miền Tây Bắc xưng tụng là “phật sống” và hết lòng yêu quý, ngưỡng mộ.
Xem thêm
Lỗi tại Sài Gòn…
Tản văn của La Mai Thi Gia
Xem thêm
Phù Điêu tại đền thờ liệt sĩ Phú Yên
Phù điêu là dạng di sản văn hoá của nhân loại. Đó là hình thức nghệ thuật khắc (chạm) nổi mô tả không gian rộng lớn của một sự kiện lịch sử hoặc chuỗi sự kiện lịch sử. Từ xa xưa, trên thế giới đã xuất hiện những phù điêu nổi tiếng như: La Sơn đại phật (Trung Quốc), Tag- Bostan (I Ran), Tôronat - Sanchi (Ấn Độ), Ăng kor Wat (CPC)… Ở nước ta, nhiều nơi đã có phù điêu gắn với sự kiện lịch sử nổi bật với hình thức thể hiện đa dạng, hoành tráng. Có thể kể tên vài địa danh như phù điêu về “Bác Hồ nói chuyện với cán bộ chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên Phong” tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng (Phú Thọ); Phù điêu ở Khu di tích lịch sử Điện Biên Phủ (Điện Biên); Phù điêu ở Bảo tàng Quân khu 4; ở Quảng Ninh, Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) …
Xem thêm
Đi tìm hiểu vì sao nước uống Fujiwa lại có lợi cho sức khỏe?
Bài viết giải thích công dụng của nước ion kiềm Fujiwa dựa trên cơ sở khoa học
Xem thêm
Một gia đình phi công
Bài viết của Đại tá nhà văn Nguyễn Minh Ngọc
Xem thêm
Đoàn nhà văn TP. HCM tham quan Nhà máy nước Fujiwa Củ Chi
Bài viết về người phụ nữ năng động năng động, sáng tạo và không ngừng vươn lên
Xem thêm
Sức mạnh hoà bình
Khi chiếc F5-E tách khỏi đội hình/ Dưới cánh bay vẫn đường băng của địch
Xem thêm
Tuổi thơ bên dòng lũ
Có thể nói, dù mưa bão thường mang đến nhiều thiệt hại cho người dân miền Trung, nhưng lũ lụt cũng bồi đắp phù sa cho vùng đồng bằng duyên hải này, nhờ đó mà người dân nơi đây có thể sống bằng nghề nông nghiệp ổn định với mùa màng tốt tươi, cây lúa phát triển.
Xem thêm