TIN TỨC

Đỗ Nam Cao - Cô đơn và khắc khoải 

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-10 21:22:57
mail facebook google pos stwis
525 lượt xem

Trần Thế Tuyển

Những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng tôi cùng sống và chiến đấu trên chiến trường Miền Đông gian lao mà anh dũng. Nhà thơ Đỗ Nam Cao công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, còn tôi là lính chiến thuộc Công trường 5 (Sư đoàn 5). Rừng Miền Đông bạt ngàn, bom đạn tàn phá, chất độc hóa học trắng rừng, nhưng chúng tôi thường xuyên gặp nhau qua Đài Phát thanh Giải phóng và chương trình Phát thanh Quân Giải phóng miền Nam. Đôi khi, hành quân giữa khuya, nghe đọc bài hoặc ngâm thơ Đỗ Nam Cao trong chương trình văn nghệ, tiếp sức cho cánh lính trẻ chúng tôi xông lên phía trước.

 

Nhà thơ Đỗ Nam Cao

Trái đất tròn, năm 2003 từ báo Quân đội nhân dân tôi chuyển nghành về Bộ Văn hóa Thông tin. Cơ duyên, tôi và nhà thơ Đỗ Nam Cao sinh hoạt chung chi bộ báo chí thuộc Đảng bộ Khối cơ sở Bộ Văn hóa Thông tin tại Thành phố Hồ Chí Minh. 

Mới đây, nhân kỷ niệm năm thứ  12 năm ngày mất của nhà thơ Đỗ Nam Cao (2011-2023), tôi được nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn Tp HCM gửi tặng tập thơ “Hỡi cô cắt cỏ” của nhà thơ Đỗ Nam Cao và bảo, anh có thể viết về kỷ niệm với nhà thơ.

Đọc Hỡi cô cắt cỏ - tuyển tập thơ Đỗ Nam Cao, tôi như gặp lại người đồng nghiệp bậc đàn anh một thời. 

 

  NỖI CÔ ĐƠN 

 

Ai đó đã nói nỗi buồn, sự cô đơn là thuộc tính và quyền sở hữu của nhà thơ. Thơ là tiếng lòng là sự chưng cất của tâm hồn nên nỗi buồn càng sâu, sự cô đơn càng lâu sẽ là nguồn cảm hứng bật ra những vần thơ để đời của nhà thơ.

Tuyển thơ “Hỡi cô cắt cỏ” (**) của Đỗ Nam Cao dày 140 trang với trên 100 bài thơ tràn ngập nỗi cô đơn xen lẫn sự khắc khoải.

Cô đơn và nỗi buồn nên hiểu theo hướng mở. Đó không chỉ là nỗi cô đơn của nhà thơ vì cái riêng mà bao gồm cả cái chung, nhân tình thế thái.  Là chàng trai có dáng lãng tử, mái tóc lúc nào cũng rối bời, quăn tít, tốt nghiệp khóa 11 khoa ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đỗ Nam Cao cùng đồng đội vượt Trường Sơn vào chi viện cho chiến trường Nam Bộ. Trong đội ngũ điệp trùng, nhưng tâm hồn chàng lãng tử cử nhân văn chương này nặng nỗi buồn và sự cô đơn. Và đó chính là lý do ùa dâng những vần thơ. Đỗ Nam Cao không ngại, bày tỏ: 

 

Thơ tôi đã từng hứng khởi

Đã từng hát khúc hùng ca

Tôi bay lướt đỉnh hào khí

Trường Sơn ngút ngàn, mù xa. 

 

Và, nỗi buồn vì chiến tranh, chết chóc, tàn phá. Cô đơn vì thân phận con người trước binh đao khói lửa, nhà thơ bày tỏ các chiều kích cảm xúc: 

 

Để rồi từ từ đáp hạ

Đậu trên đỉnh mái nhà ta

Quê hương ôi rơm với rạ 

Mẹ cha vách bùn, cột tre.

        (Thơ tôi) 

 

Những câu thơ, bài thơ với ý tứ như thế ta gặp nhiều trong “Hỡi cô cắt cỏ”. Văn là người. Thơ là hình bóng, tâm hồn của người sinh ra nó. Nỗi cô đơn trong thơ Đỗ Nam Cao từ cái riêng thầm kín sang cái chung lan tỏa.

Có lúc nỗi buồn vu vơ của tác giả thấm chuyển sang người đọc:

 

Ngong ngóng người lại qua

Tìm một gương mặt biết

Dòng sông đời chảy xiết

Không ai chờ đợi ta 

                          (Không ai)

 

Không ai chờ đợi ta, đến chỉ một mình ta, nỗi cô đơn càng lạnh lẽo, da diết: 

 

Ai tìm kiếm khao khát

Một ai một kín thầm 

Ai đứng đó bồn chồn.

                 (Sân ga)

Và: 

 

Khóc một mình nuốt ực

Cười một mình, bật rên 

Một mình đi thâu đêm

Một mình.

                        (Một mình)

 

Phải cô đơn lắm mới viết được những câu thơ như thế. Như bậc tiền bối - ông hoàng thơ tình đã từng viết: “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Xuân Diệu).

 

Rõ ràng sự cô đơn, nỗi buồn là thuộc tính, đặc quyền của nhà thơ.

Từ nỗi buồn, sự cô đơn “không hiểu vì sao tôi buồn” ấy đến cái cụ thể thầm kín của riêng mình. Mặc cho dòng đời chảy xiết, nhà thơ có nỗi buồn riêng: 

 

Nghĩ cho cùng anh với em đều tốt 

Sao chúng mình không ở được cùng nhau 

Rồi anh sẽ yên nằm dưới cỏ 

Thì tình yêu chưa thể yên nằm.

                         (Ly hôn)

 

Câu thơ bước ra từ trái tim, từ thực tế phũ phàng như lý giải một cách triết lý về hiện thực. Tình yêu là một lĩnh vực. Còn đời sống vợ chồng lại là một lĩnh vực khác. Không phải hai người tốt sẽ sống ăn đời ở kiếp với nhau. Điều quan trọng nhất hai người tốt, cực tốt ấy có cùng nhịp đập trái tim? 

Đọc thơ Đỗ Nam Cao, người đọc, đặc biệt người đọc trong cuộc thấu hiểu nỗi buồn, nỗi cô đơn sâu kín, thầm lặng của nhà thơ. Và, không chỉ thế, hiểu thêm về số phận con người. Thực tế trên cõi đời này, không ai tốt đến quá tốt và không ai xấu đến quá xấu. Mọi vinh quang và hệ lụy đều có căn nguyên của nó. Đọc thơ Đỗ Nam Cao, người đọc thêm một lần chia sẻ, cảm thông. Đỗ Nam Cao có những câu thơ thấm đậm nhân văn, tình người, đặc biệt là tình yêu. 

Lặp lại:

Rồi anh sẽ yên nằm dưới cỏ 

Thì tình yêu chưa thể yên nằm.

 

Rõ ràng, Đỗ Nam Cao là lãng tử xứ Hà thành, nhưng đó là một chàng trai chung tình. Đã yêu, yêu đến tận cùng sự sống. Và, không chỉ khi sự sống vãn mãn mà còn mãi mãi: “anh nằm dưới cỏ, còn tình yêu chưa thể yên nằm”. Anh mãi mãi yêu em!

Viết đến đây, tôi không thể quên nụ cười của Đỗ Nam Cao mỗi lần nghiêm túc họp chi bộ cũng như mỗi lần thăng hoa “trà dư tửu hậu”.

Rõ ràng con người ta không chỉ đo giá trị bởi sự thành đạt về vật chất, danh vị mà phải chính bằng nhân cách và nhân văn. Hai yếu tố cơ bản tạo nên cốt cách, chân dung một con người.

 

NIỀM KHẮC KHOẢI

 

Từ tuyên ngôn về thơ, Đỗ Nam Cao nhất quán cách biểu đạt trong suốt quá trình sáng tác thi ca:

 

Thơ tôi lộn đầu xuống đất

Giơ chân lên đỡ sao trời 

Thơ tôi trái điều lộn hột 

Bao nhiêu tình chất phơi ngoài.

...

Thơ tôi đè nặng ngọn bút 

Nặng đè ngực nhức buốt tim

Vụt chói lòa là mất hút

Ngẩn ngơ em sợ hãi tìm.

                       (Thơ tôi) 

 

Thơ Đỗ Nam Cao là thế. Đậm nét nhất thông điệp của nhà thơ trong bài thơ cùng tên của tuyển tập thơ này - Hỡi cô cắt cỏ.

Hỡi cô cắt cỏ chiếm diện tích hơn 10 trang in trong tập sách có thể coi là trường ca (mini) mà Đỗ Nam Cao muốn gửi tặng mọi người.

 

Thông điệp tác giả muốn trao gửi cho người đọc nói chung và hậu thế nói riêng là: Mọi thứ có thể qua đi, tiền tài, danh vọng có thể qua đi. Chỉ có ký ức đẹp và tình người còn mãi. Ký ức đẹp là cây đa, bến nước, sân đình, là “Hỡi cô cắt cỏ”; ký ức đẹp đó là: 

 

Mưa rào rạch nước, cá rô

Tôi bơi ngược đến kiệt khô sức mình...

Áo tơi rủ xuống mặt đồng

Mẹ đi cấy mạ mãi còng cả lưng.

 

Đó là hình ảnh tạo nên dáng vóc một thời không chỉ của riêng tác giả mà của tất cả chúng ta, những người đã sống thời đại ấy.

Cái tình mà Đỗ Nam Cao muốn gửi gắm trong “Hỡi cô cắt cỏ” cũng khá đặc sắc, không lẫn vào đâu được:

 

Hỡi cô cắt cỏ trên trời 

Làm cho chú Cuội tuột rơi xuống làng

Nên tôi phải tự dối lòng

Nên tôi phải nói dối nàng của tôi

Đeo con cóc kiện ông giời 

Đeo con kiến kiện củ khoai làm gì.

 

Có thể nói khác với các bài thơ trước, Đỗ Nam Cao viết “Hỡi cô cắt cỏ” trong trạng thái thăng hoa của chàng lãng tử xứ Hà thành. Thể thơ đa dạng, mạch thơ lúc bay bổng, lúc trầm tư; chất dân gian, trữ tình thấm đậm đã truyền cảm hứng mãnh liệt đến người đọc.

Nỗi khắc khoải với kỷ niệm, ký ức một thời vốn là cái cớ, bệ đỡ, nguồn cảm hứng vô tận của  nhiều nhà thơ. Đỗ Nam Cao không ngoại lệ.

 

Đã quá mười mùa xuân Đỗ Nam Cao rời cõi tạm. Hương hồn nhà thơ đang phiêu du cùng các bận tiền nhân nơi viễn xứ. Cọp chết để da, người chết để tiếng. Hỡi cô cắt cỏ là tiếng lòng của Đỗ Nam Cao để lại cho chúng ta và hậu thế!.

 

Tp Hồ Chí Minh, đêm 3-10-2023

                             TTT

 

(**) NXB Sân khấu - 2021. 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm