- Lý luận - Phê bình
- Đọc KIẾM THƠ TRONG THIỀN của nhà thơ Lê Viết Hòa
Đọc KIẾM THƠ TRONG THIỀN của nhà thơ Lê Viết Hòa
XUÂN TRƯỜNG
Nhà thơ Xuân Trường tại buổi ra mắt "Kiếm thơ trong thiền" (ảnh: NH)
"An nhiên kiếm chữ trong thiền
Gởi vào đời nụ cười hiền trẻ thơ"
Thiền là hình thức nghệ thuật có tính tâm linh cao nhất; con người phải tĩnh lặng, vô ngôn, định tâm, và thoát ra khỏi những đa đoan của đời thường làm nhiễu loạn tâm trí chúng ta. Thiền được gọi tắt là Thiền na theo ngôn ngữ Ấn Độ là Dhyana. Tịch lự (lặng suy) nghĩa là trầm tư về một chân lý đạt đến ngộ và in sâu vào tâm thức chúng ta. Cũng có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tựu trung là xem xét mối quan hệ biện chứng giữa tĩnh và động, như một tiếng chuông thức tỉnh con người.
Cùng với sự phát triển của Phật Giáo, thiền đã ảnh hưởng sâu rộng vào văn học phương Đông, thấm đậm vào trong cuộc sống, cũng như văn học nghệ thuật, đời sống xã hội của người Á Đông. Đặc biệt là trong thơ Đường Trung Hoa, thơ Haiku của Nhật và thơ thời Lý, Trần của Việt Nam. Phật Hoàng Trần Nhân Tông và Thiền Sư Huyền Quang đã để lại nhiều áng thơ tuyệt tác cho nền văn học dân tộc.
Thiền giúp cho tâm thức chúng ta được giải thoát mà trở nên thanh tịnh; có như thế mới tập trung vào cảm xúc, trải nghiệm và sự tinh tế trong sử dụng ngôn ngữ để phát hiện những mới lạ trong cuộc sống vô thường mà trong lúc khác chúng ta không nhìn thấy được.
Thiền và thơ đều tập trung cao độ vào khả năng nhận xét sâu sắc của con người. Trong khi thiền giúp cho con người thanh tịnh, thì thơ sẽ xuất hiện qua cảm xúc và trải nghiệm của mình bằng ngôn ngữ. Cả hai đều đòi hỏi sự tuyệt đối và tinh tế trong việc xử dụng ngôn từ.
Đã từ lâu nhiều nhà thơ đã thực hành thiền để tìm kiếm cảm hứng, hình thành ý tưởng, khơi gợi hình tượng đẹp trong những phát hiện của mình. Vậy thì thiền sẽ giúp cho thơ bình tĩnh hơn, tập trung hơn, có nhiều khả năng đưa ra những cảm xúc sâu sắc hơn từ đó tác phẩm thơ của họ sắc nét hơn và tinh tế hơn. Nhiều Thiền Sư đã viết thơ để truyền đạt thông điệp của mình, sử dụng ngôn ngữ để truyền tải những ý tưởng tâm linh, khơi gợi cảm hứng cho người đọc. Thiền để làm thơ là phương pháp tu tập chứ không phải tu hành, nhưng nó hướng thiện. Dùng thiện tâm để hóa giải các mối quan hệ giữa con người với con người; với thiên nhiên và vũ trụ quanh ta. Mục đích là tìm kiếm cảm xúc, ngôn ngữ rồi nhập thế phát hiện những tồn tại trong cõi đời gây ra phiền toái đau thương cho con người, nhằm điều chỉnh, hướng con người trở về với nguồn cội yêu thương và lòng biết ơn trong sinh hoạt cộng đồng, cũng như hòa mình vào với thiên nhiên mà tồn tại trong cả sắc sắc, không không và sống thật đẹp trong cái quán trọ trần gian này.
Tôi nghĩ thiền và thơ có liên quan mật thiết trong việc xây dựng đạo đức con người, nó như là một thứ pháp chế được giấu bên trong tâm hồn để cho con người tự điều chỉnh mình trước mọi năng lực hành vi trong cuộc sống, ứng xử hài hòa với thiên nhiên. Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã dùng phương pháp tu hành để tiếp nhận cuộc sống, tiếp nhận những hiện thực tinh thế rồi giải mã để giúp xã hội tốt đẹp hơn, con người thoát ra được những khổ đau để được an yên hơn.
Thực hành Thiền có thể ở trạng thái ngồi, đi hoặc đứng; nhưng khi có ý tưởng, ngôn ngữ xuất hiện ta lập tức phải lưu lại không thì nó qua đi để cái mới xuất hiện. Do vậy thiền ở một số trường hợp là như ta đang làm thơ vậy!
Ở miền Nam trước năm 1975, đã có các dòng thơ Thiền trữ tình và triết lý của các thi sĩ: Quách Tấn, Phạm Thiên Thư,v.v… Nói thực ra thiền được đã là khó, mà thiền để có thơ hay lại càng khó hơn; do vậy mà phải công phu tu tập, tịnh tâm, tịnh lòng, khổ luyện, và bên cạnh đó cũng cần có cơ duyên, tinh khiết tâm hồn nữa.
Chúng ta hãy nghe nhà thơ Lê Viết Hòa kiếm thơ trong thiền:
“...Bãi bồi lở bóng thời gian
La đà khóm trúc che ngang mặt ngày...”
Lâu nay tôi thường gặp các nhà thơ chạm được thời gian bằng cách đối thoại, thương lượng với thời gian, màu sắc của thời gian. Nhưng nay Lê Viết Hòa đã có một phát hiện mới đó là cái bóng của thời gian. Tôi nghĩ cái bóng thời gian đang bay trong cõi tâm thức của anh trong khi hành thiền và lưu lại bằng ngôn từ, giúp cho anh sở hữu một phát hiện mới đó là cái bóng của thời gian. Ở “Khóm trúc che ngang mặt ngày” anh đã diễn đạt được cái vô hạn của thời gian, chứ nếu dùng "che ngang mặt người" thì bình thường.
Trong không gian thiền của anh có cánh võng mây, có nhịp sóng đời lênh đênh, có mưa đan sợi nhớ, có tóc cài hoàng hôn, có sự tụ tan vô thường... đã đưa anh về cõi tâm thức nguyên sơ, mà an yên với nụ cười trẻ thơ nơi bắt đầu của sự sống. Tất cả anh đều hướng tới cái cội nguồn, cái chi sơ và bổn thiện để khơi gợi sự yêu thương, chân thành với nhau, trong cái nhịp điệu hối hả của đời này: “An nhiên kiếm chữ trong thiền / Gởi vào đời nụ cười hiền trẻ thơ” (trong bài Kiếm chữ trong thiền).
Hai biểu tượng được xuất hiện rất nhiều trong hành trình thơ anh là Dòng Sông và Hoa Sen:
Dòng sông nhân gian của anh đã chảy: “...Sự háo hức mạnh mẽ ban đầu của niềm đam mê vươn tới những chiêm nghiệm khám phá. Sự hồ hởi của buổi nguyên sơ cuốn trôi đi tất cả những rào cản, những định kiến cắm sâu vào gốc rễ để đưa phù sa đắp bồi yêu thương và lòng biết ơn nguồn cội vào con đường mà dòng sông đã chọn. Nhưng em ơi! cuộc đời không phải lúc nào cũng như ý mình mong muốn...”. Người em ở đây không phải là một đối tượng cụ thể nào; anh đã đưa ra để đối thoại với chính mình, mở ra cái vô hạn của thiên nhiên, nâng đỡ nuôi dưỡng cái hữu hạn đời người; cứ chảy hết mình những yêu thương, lòng thanh bạch và dâng hiến cho đời những hương thơm, những nguồn lực sống.
Người ta bảo hoa sen là loài hoa quân tử, nó thánh thiện thanh tao, sang trọng, thường xuất hiện ở nơi trang nghiêm, cung kính như chùa chiền, cung đình; tòa sen là nơi ngự trị của Đức Phật. Sen cũng là loài hoa thủy chung biết ơn bùn đất đã chuyển đổi trạng thái mà hiến dâng cho sen thơm ngát. Trong thơ, Lê Viết Hòa mê đắm sen, ngưỡng mộ sen, cũng có nghĩa là tâm hồn anh hướng đến tu tập phật pháp, hướng lòng đến thiền để tìm về cái tinh khiết, cái nguyên sơ, cái thủy chung, cái yêu thương nhau của con người và anh đã ngộ được nhiều điều ở hoa Sen:
“Nhìn đóa Sen Hồng tôi cảm thấy lòng mình nhẹ nhàng và thanh thản đến lạ...
Đóa Sen hồng tinh khôi trên bầu trời huyền ảo...
Tôi lạc hồn vào cõi mênh mông trời đất
Ở đó không có sự tị hiềm nhỏ nhen đố kỵ
Ở đó không có sự bon chen tranh giành vị lợi
Ở đó không có hận thù ganh ghét dối lừa
Ở đó không có khổ đau day dứt dằn xé..." (Đóa sen hồng).
Những cụm từ như: hư vô, hóa thân, trần ai, thoát thai, tinh khiết, thánh thiện, hiện sinh, lụn tàn, hồi sinh, khổ đau, day dứt, cam lồ, buồn đau, thánh thiện, luân hồi, ngã, vô ngã, vô cùng, kiếp này, cõi người, cõi mê, vô thường, lở bóng thời gian, tụ tan, trong thiền, nguyên sơ, phù du, cội xưa, phù vân, ba sinh, vô vi, vô ngôn, v.v… đã thể hiện trọn vẹn chất thiền trong thơ anh.
Tôi rất tâm đắc và trân trọng Lê Viết Hòa khi anh dùng cụm từ “Mẹ thiên nhiên”; hiện đại lắm vì ngày nay chúng ta đang đặc biệt quan tâm đến các vấn đề về sinh thái để hướng văn chương nghệ thuật góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ sự sống của nhân loại mà từ lâu con người đã nhẫn tâm tàn phá, đem đến không biết bao nhiêu khổ đau, hệ lụy cho con người.
Kiếm thơ trong Thiền, Lê Viết Hòa đã nhìn thấy bao nhiêu những oan trái, những khổ đau, những sân si, những bạo lực, tranh giành đang đày đọa con người. Bằng thơ anh đã mở lòng nguyện cầu con người hãy nối kết yêu thương, hãy tiếp nhận, kết nối lòng vị tha, để mọi tâm hồn được an yên, bớt nặng lòng trong cõi sắc không này.
“...Đi qua mấy cuộc thăng trầm
Câu thơ trầy xước lặng thầm mà thương
Còn đây bồi lở tấc lòng
Đục trong dòng chảy cuối đường rỗng không” (Lặng thầm mà thương).
Có thể nói Sen hồng đã ngự trị trong cái tĩnh lặng trâm hồn anh, chạm đến những cảm xúc lạ vừa mang tính trữ tình, vừa triết lý nhân sinh:
“...Mây
mây
mây
trắng ngút ngàn
Từ em miên viễn tụ tan vô thường
Ta về lưu ký mùi hương
Tịnh tâm kiếm chữ dọc đường nhân sinh”. (Sen hồng tịnh tâm).
Những câu thơ nhẹ nhàng, sương khói, bảng lảng, nhưng lại đưa ta vào một cõi mơ hồ đầy ám ảnh của thiên nhiên:
“...Giọt thu rớt nhẹ bên đời
Cuốn theo chiều muộn về nơi ngút ngàn
Gõ vào tĩnh lặng thời gian
Nhịp tim rất khẽ ngỡ ngàng thẳm sâu”
hoặc là
“...Phố xưa sương khói miệt mài
Cuộn vào chiếc lá một mai hư gầy
Sắc thu vương vít bàn tay
Hương sen ươm nụ ngủ say giấc hồng” (Sắc Thu).
Tôi xin dẫn hai bài thơ "Mái chèo" của Lê Viết Hòa và Thiền sư Thích Nhất Hạnh để ta chiêm nghiệm thêm chất thiền trong thơ hiện đại:
"Mái chèo" của Lê Viết Hòa:
“Ta chèo giữa bến bao la
Xuôi bao vạn nẻo đi qua cuộc người
Khi đáy sông lúc đỉnh trời
Thương tình vỡ giấc nữa đời mơ tan …
...Ta chèo mấy đoạn thăng trầm
Lăn tăn sóng gợi rì rầm cội sông
Hồ xưa nở đóa sen Hồng
Người đi xa buổi sầu đông rụng đầy…
...Người chừ mây trắng phiêu diêu
Ta gom câu chữ chắt chiu trong Thiền”.
Dòng Sông đời chứa cả bầu trời hay mái chèo của anh khua động đến trời, khua động đến cội nguồn của sông, làm cho sông thức tỉnh, chảy với trách nhiệm hòa quyện với thiên nhiên của mình. Chảy trong tình thương yêu, bồi đắp, nuôi dưỡng con người và sau cùng trong cõi yêu thương này, anh đã tìm được chữ cho thơ.
Và đây là "Mái chèo" của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh:
“Sáu chiếc chèo tay mang nhịp sóng
Đưa thuyền tách khỏi bến mê mờ
Qua ngàn lớp sóng trần xô đẩy
Hướng thẳng về nơi bản thể xưa” .
Mái chèo này cũng khua động cội nguồn thức tỉnh bản thể xưa, trong cõi tỉnh lặng ấy, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh cũng đã nhắc nhở con người hướng thiện, thoát ra khỏi mọi sân si để thương nhau. yêu lấy nhau.
Cả hai "Mái chèo" đều mang xu hướng nhập thế để nâng niu, yêu thương con người và cuộc sống.
Lê Viết Hòa đã dùng thể thơ lục bát truyền thống để chuyển tải cảm xúc và thông điệp của mình, do vậy đã làm xao xuyến người đọc, dễ tạo sự đồng cảm với mọi người. Âm thanh, nhịp điệu trong từng câu chữ như tạo ra không gian mời gọi tha thiết, gợi mở tâm hồn mọi người tìm cái chân thật trong cõi thiền.
Đúng vậy từ thế kỷ 15 những câu ca dao lục bát đã ru cuộc đời vất vả của dân tộc ta đến nay và qua thời hiện đại hãy còn nguyên giá trị của nó. Có thể nói, thơ lục bát là nơi lưu giữ tâm hồn dân tộc hiểu theo ý nghĩa nó là một phần của của bản sắc văn hóa dân tộc.
Cá nhân tôi phát hiện nhiều nhà thơ viết theo thể loại tự do hay thì bao giờ họ cũng có những câu lục bát tài tình. Bảo tồn và phát triển lục bát là trách nhiệm của mỗi chúng ta.
Thật ra nhập thiền để có thơ là không dễ chút nào, còn phải có cơ duyên, sự chiêm nghiệm, học hỏi và cả sự tinh khiết của tâm hồn. Chắc có lẽ cái thâm trầm của Cố Đô Huế, cái mùi hương sen quá khứ bên hồ TịnhTâm, cái êm dịu của Sông Hương, cộng với thuyết ngũ hành trong đông y và những bước chân trải nghiệm đã giúp anh tĩnh tại và tìm kiếm thơ trong cõi thiền.
Thiền trong thơ là vấn đề lớn của nhân loại, nó thiên lý bao la và vô cùng, tôi xin chia sẻ một số cảm nhận về tập “Kiếm thơ trong Thiền” của Lê Viết Hòa, chứ không thể nào đi hết cái chiều sâu của thơ và cõi lòng anh được.
Xin chúc nhà thơ Lê Viết Hòa an nhiên trong sáng tạo.
Sài Gòn, tháng 3 năm 2023.