TIN TỨC

Hồn quê trong một sắc thơ miệt vườn

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-01-07 14:49:13
mail facebook google pos stwis
408 lượt xem

Nguyễn Thanh

Nhà thơ Kiên Giang (1929-2014) - đúng ra năm sinh: 1927 - tên thật Trương Khương Trinh (bút danh khác: Hà Huy Hà, Ngân Hà, Trinh Ngọc, Cửu Long Giang…, gốc người làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá, nay là Kiên Giang).

Nhà thơ Kiên Giang  (1929-2014)

Nhà thơ Kiên Giang (1929-2014) - đúng ra năm sinh: 1927 - tên thật Trương Khương Trinh (bút danh khác: Hà Huy Hà, Ngân Hà, Trinh Ngọc, Cửu Long Giang…, gốc người làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá, nay là Kiên Giang). Ông còn là ký giả, soạn giả cải lương hàng đầu cùng thời với Năm Châu, Viễn Châu, Thái Thụy Phong, Quy Sắc…và là thầy của hai soạn giả tài danh: Hà Triều - Hoa Phượng. Bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc, công chúng rất hâm mộ. Vở cải  lương Người vợ không bao giờ cưới đã giúp cho Thanh Nga (1942-1978) đạt giải Thanh Tâm (1958) và trở thành “nữ hoàng sân khấu”. Trước 1975, Kiên Giang phụ trách ban Thi văn Mây Tần trên đài Phát thanh Sài Gòn, làm thơ và viết cho các báo : Tiếng chuông, Tiếng dội, Điện tín, Tia sáng…Ông tham gia phong trào ký giả đi ăn mày, dẫn đầu đoàn biểu tình chống chế độ Cộng hòa đàn áp đặt quy chế khắt khe lên báo chí nên bị vào tù. Sau ngày thống nhất đất nước, Kiên Giang làm Phó đoàn Cải lương Thanh Nga, kiêm cán bộ phòng Nghệ thuật, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Sân khấu thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm : + Tập thơ: Hoa trắng thôi cài trên áo tím, Lúa sạ miền Nam, Quê hương thơ ấu. + Vở cải lương : Người đẹp bán tơ (1956), Người vợ không bao giờ cưới, Áo cưới trước cổng chùa, Phấn lá men rừng, Hồi trống trường làng, Lưu Bình Dương Lễ…, +Tân cổ giao duyên: Đội gạo đường xa, Người đẹp bán tơ, Hương cau quê ngoại, Cô gái miền Tây… Cuộc đời nhà thơ được hảng phim Truyền hình TP. HCM (TFS) thực hiện thành phim (1999) với nhan đề: “Chiếc giỏ đời người”. Thơ Kiên Giang được coi là ấn tượng giọng thơ chơn chất, mộc mạc của người Nam bộ.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, Rạch Giá (nay là Kiên Giang) từng được coi là vùng đất thơ phương Nam với hiện diện của nhiều danh sĩ trên văn đàn : nhà thơ Mạc Thiên Tích (1706-1780) với Chiêu Anh Các, đôi uyên ương thi sĩ : Đông Hồ (1906-1969) - Mộng Tuyết (1914-2007), Sơn Nam (1926-2008) cùng người bạn văn nghệ đồng hương tri kỷ Kiên Giang… và còn nữa dấu ấn không phai của nhà thơ lãng tử yêu nước Nguyễn Bính (1918-1966) tại Hà Tiên … Với Kiên Giang, một khuôn mặt thơ thuộc thế hệ đàn em gần gũi với Nguyễn Bính, mà phong cách thơ có nhiều sắc điệu cọng hưởng với tác giả “Lỡ bước sang ngang”.

Nhà thơ Kiên Giang sinh ra tại làng Đông Thái, Gò Quao, vùng U Minh Thượng, cùng quê với nhà văn Sơn Nam. Thuở nhỏ, anh học trò Trương Khương Trinh sống với gia đình tại quê nhà, sau lên Rạch Giá vào tiểu học. Thi đậu bằng Tiểu học Pháp Việt, Khương Trinh lên Sài Gòn học trường Lê Bá Cang rồi trở xuống Cần Thơ, học lớp Đệ Nhị (nay là lớp 11) trường Nam Hưng (khu vực Tư thục Nam Cường, sau đó là trường Tân Văn tọa lạc  khoảng giữa đường Phan Đình Phùng hiện nay). Tại đây, nhờ có khiếu văn chương, anh được thầy giao cho thực hiện tờ bích báo lấy tên là “Ngày xanh”. Anh lo biên tập bài vỡ kiêm luôn việc trình bày là vẽ và trang trí. Cô bạn học Nguyễn Thị Nhiều có nét chữ đẹp, giúp anh nắn nót lo chép bài vở. Nhiều có cái tên mộc mạc, dân dã nhưng vóc người duyên dáng với khuôn mặt thanh tú và mái tóc huyền liêu trai buông thỏng ôm ấp đôi bờ vai. Gia đình người bạn gái theo đạo Thiên Chúa, nên anh học trò giỏi văn nghệ đa tình thường lén theo rình bạn đi lễ tại nhà thờ Chánh Tòa (ở đường Nguyễn Thị Minh Khai bây giờ) mặc dù mình là người ngoại đạo.

Tình cảm giữa hai người rất “thơ”, và có lẽ trong cõi lòng sâu kín, họ cũng đã cảm nhận nhau tình yêu trong thầm lặng, chẳng khác nào chuyện tình nên thơ giữa chàng thi sĩ tài hoa Pháp Félix d’Avers (1806-1850) và người đẹp Marie Nodier (trong bài thơ “Tình tuyệt vọng” mà nhà văn Khái Hưng (1890-1946) đã dịch rất hay từ tiếng Pháp sang tiếng Việt (1)). Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Kiên Giang cùng những người bạn thanh niên yêu nước như Nguyễn Bính, Sơn Nam vào vào khu 9 cùng toàn dân, tham gia chống giặc ngoại xâm. Bài thơ nổi tiếng một thời “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” (2) của Kiên Giang mang tình tự của tác giả và có nguồn gốc xuất phát từ thời điểm, không gian này.

Kiên Giang là một nhà thơ yêu nước, một soạn giả, một ký giả được sinh ra tại Hậu Giang và lớn lên trong kháng chiến 9 năm chống Pháp ở Nam bộ. Ngoài những vở cải lương mang đề tài lịch sử, văn học, những tấm gương trung hiếu tiết nghĩa cao đẹp trong dân gian,  Kiên Giang thể hiện trong tác phẩm tấm lòng chơn chất, tình cảm dung dị hồn nhiên của con người miền Nam.  Tác phẩm Kiên Giang được coi là thông điệp chung nhà thơ nói hộ tâm tư trong sáng, tình cảm thanh cao cho bà con, làng xóm và đồng bào mình không chỉ vủng sông nước ruộng đồng mà còn cho khắp cả ba miền quê hương ruột thịt. Nếu trước đây có dịp được nghe những bài thơ Kiên Giang chọn ngâm trên sóng đài Phát thanh Sài Gòn của ban Thi văn Mây Tần, thính giả bốn phương cũng đã nhận ra được tính nhất quán ở chủ đề những bài thơ và lập trường chân chính của người phụ trách chương trình. Đó là tình yêu làng xóm, nghĩa tình đồng bào ruột thịt, gián tiếp nói lên lòng yêu quê hương, tinh thần bảo vệ đất nước và ý chí đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Với Kiên Giang, trước tiên, bài thơ nổi tiếng “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” được coi là thiên tình sử đẹp tuổi học trò thời hoa niên, lồng trong bối cảnh chiến tranh của tác giả với cô gái có đạo yêu nghệ thuật văn chương ở khu Nhà Thờ Lớn tại Tây Đô - tác phẩm đã làm cho tên tuổi nhà thơ thêm rạng rỡ trên thi đàn. Hầu hết những bài thơ còn lại trong ba thi phẩm của tác giả, đều nói lên được cái tình cảm hồn hậu, chơn chất và ngôn ngữ thơ dung dị, giản đơn như lời ăn tiếng nói thật thà của con người miệt vườn Tây Nam bộ. Thơ Kiên Giang đa phần nghiêng về tả cảnh và tự sự. Kiên Giang là thi sĩ của miền sông nước Hậu Giang nên người đọc thường bắt gặp những cảnh quen thuộc nơi quê hương tác giả. Đó là hình ảnh của con sông Hậu hiền hòa mang nước dòng nước ngọt phù sa màu mỡ cho ruộng lúa vườn cây như đem hơi thở trong lành về cho bà con làng xóm : “Đây Hậu Giang, đây Hậu Giang/ Nhánh sông gắn bó Cửu Long Giang/ Phù sa cuộn chảy trong lòng nước/ Khói sóng hòa hơ thở xóm làng…” (Đẹp Hậu Giang). Yêu đất nước là yêu quê hương, nơi chôn nhau cắt rún còn in đậm dấu vết kỷ niệm của người thân và biết tự giác đứng lên cầm súng,  đấu tranh bảo vệ tổ quốc : “Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo/ Anh làm chiến sĩ giữ quê hương/ Giữ màu áo cưới người yêu cũ/ Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường” (Hoa trắng thôi cài trên áo tím).

Thơ Kiên Giang là những bức tranh hồn hậu về gia đình, về trường học được phác họa đơn sơ, chơn chất mà tinh tế và trữ tình, dễ lôi cuốn người đọc vì dễ hiểu, dễ nhớ, chỉ đọc qua một lần có thể thuộc ngay. Dù có người bảo thơ Kiên Giang có giọng điệu gần gũi với Nguyễn Bính, vì hai thi sĩ nổi tiếng này, ngoài cá tính tương đồng ngẫu nhiên, họ đã có dịp sống và công tác văn nghệ gần nhau lúc còn ở trong chiến khu. Đọc lại thơ Kiên Giang, ta bắt gặp hình ảnh quen thuộc, gần gũi của mọi người trong gia đình, nơi trường học…Đó là cử chỉ bỡ ngỡ của cậu học trò nhỏ ngây thơ rất dễ yêu, bắt đầu làm quen với từng con chữ viết xa lạ lúc mới vào tiểu học dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo : “Từ khi cô giáo tập em đồ/ Không kê giấy chậm em vô ý/ Để dấu tay lem vở học trò ” (Đồng xu giấy chặm). Bút pháp Kiên Giang, dù mộc mạc đơn sơ nhưng tác giả đã nắm bắt tài tình được những chi tiết đáng giá. Cũng như những dòng thơ mới thất ngôn dung dị nhưng đầy hình tượng và sắc màu theo đó nhà thơ đã nhớ lại và mô tả về người mẹ quê Nam bộ tão tần và đáng kính: “Nhớ mùa cau trổ trong vườn cũ/ Mẹ quét lá vàng ủ lấy phân/ Khói trắng lên trời như tóc bạc/ Con ngờ khói tóc quyện mây Tần” (Khói trắng). Những đường nét, vệt màu tiêu biểu trong bức tranh sinh hoạt của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long luôn hiện diện trong chiều dài và độ sâu của thơ Kiên Giang. Từ chiếc “Bánh ống Trà Vinh” xinh xắn, thơm ngọt đến hình ảnh đặc thù Nam bộ của chiếc cầu tre quen thuộc bắt gặp rải rác ở các sông rạch đồng bằng, luôn được nhà thơ Kiên Giang trìu mến mô tả bên cạnh những câu ca dao ý vị : “Ai ở làng quê…/Đã từng …/ Qua nhịp cầu tre/ Tiếng hò tiếng hát/ Dưới mái nhà tranh/ “Ầu ơ… Ví dầu cầu ván đóng đinh/ Cầu tre lắt lẻo, gập ghềnh khó đi/ Khó đi mượn chén ăn cơm/ Mượn ve mua rượu, mượn đờn kéo chơi”. Tiếng “Sàng gạo” vang vọng sột soạt trong ánh hoàng hôn bảng lảng với người mẹ hiền mái tóc trắng phau, tiếng “Xe trâu” cót két, lang thang trên lối mòn làng quê, là những âm vang quen thuộc trong đời nhà thơ: “Mẹ rắc hoàng hôn theo hạt tuyết/ Cám bay phảng phất quyện hương cau/ Nghiêng nghiêng bóng xế sau lưng mẹ/ Gạo trắng như màu tóc trắng phau” (Sàng gạo)- “Xe trâu cót két/ Cót két xe trâu/ Bánh xe nằng nặng in sâu lối mòn…” (Xe trâu). Bài thơ”Tiền và lá” mang tính triết lý khiến ta dễ ngậm ngùi về một thói đời không phải là hiếm gặp ở cõi nhân gian : “Tiền không là là em ơi/ Tiền là giấy bạc của đời in ra/ Người ta giấy bạc đầy nhà/ Cho nên mới được gọi là chồng em” (Tiền và lá”). Còn nữa, vẫn với lời thơ chơn chất, thật thà và bút pháp bình dị, hồn nhiên, nhà thơ Kiên Giang tiếp tục cho ta hình tượng những con đò, chiếc quán đình làng.. luôn đưa ta về với quê hương, nguồn cội. Trên tất cả ở nội dung thơ Kiên Giang vẫn là tình yêu đất nước quê hương như luôn bàng bạc theo từng tứ thơ, câu thơ :”Quê hương là máu, là xương thịt…/ Nếu ai xâm chiếm đến quê hương/ Tình quê sẽ hóa ra tình nước/ Tình nước đúc thành súng với gươm…/ Dân đứng lên siết chặt quân hàng/ Giặc vào đây, giặc sẽ rã tan…” (Tình quê tình nước).

Với tình cảm nhạy bén của một nhà thơ cộng với sự năng nỗ bộc trực của một ký giả, Kiên Giang không thể thờ ơ trước các vấn đề thời sự chướng tai gai mắt diễn ra trong xã hội. Những ngày đất nước chưa giải phóng, nhà thơ đã hăng hái tham gia, dẫn đầu đoàn biểu tình chống chế độ khắt khe với giới báo chí mà không sợ tù đày. Phong trào chống chế độ độc tài mục nát đã phong tỏa chùa chiềng, đàn áp ni cô, nhà sư xuống đường, sau sự kiện tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức, Nhất Chi Mai, rồi đến hành động quả cảm coi thường mạng sống của Quách Thị Trang, Mai Tuyết An…Cả đến cái chết của anh sinh viên Mỹ Morisson từ bên kia bờ Thái Bình đương đã thiêu trước lầu Năm Góc để chống đối cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ, đòi hòa bình tại Việt Nam, Kiên Giang đều có làm thơ để bày tỏ tấm lòng ngưỡng mộ, tiếc thương: “Nhất Chi Mai, Morisson/ Đôi bồ câu trắng giữa lòng thiên thu” (KG) – “Mai Tuyết An, Mai Tuyết An/ Là hoa mới nở giữa vườn xuân/ Tuổi băng trinh đẹp màu thanh khiết/ Ánh mắt chưa hoen lấm bụi trần…”(KG). Những năm cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, thấy các cô gái đua nhau hăm hở lấy chồng Mỹ - cũng như phong trào lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc gần đây, nhà thơ thay lời người mẹ, bày tỏ nỗi niềm : “Một sáng qua đò đi chợ Tết/ Mẹ khuyên con gái lọc lừa yêu/ Lấy chồng ngoại quốc, quên nguồn gốc/ Tiền bạc đâu xe sợi chỉ điều/ Mai mốt nó về bên xứ nó/ Dân mình đùm bọc đức con lai/ Lớn lên nó oán hờn cha mẹ/ Tham bã phù hoa bỏ giống nòi” (KG).

Chúng tôi không quên khoảng thời gian giữa “Phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc” và “đấu tranh  chống đế quốc Mỹ”, những ngày anh em giáo viên, sinh viên học sinh có tư tưởng tiến bộ, hăng hái làm tờ tạp chí “Văn nghệ Miền Tây” (3) vào cuối năm 1967, được gặp Kiên Giang và Sơn Nam ở khu Nancy (cuối đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn). Hay dưới khung trời đêm Tây Đô xám xịt, thỉnh thoảng thành phố gầm rung lên với tiếng bom do phi cơ B52 dội xuống U Minh vào đầu năm 1970 khi làm VNMT và tờ Lập trường (4)  tại quán cà phê “Giọt buồn” của cô giáo Mai trước sân xưởng Cơ khí tại đường Mạc Tử Sanh (nay là đường 30/4, đối diện với Bệnh viện 121 bây giờ). Những lần lại được gặp mặt nhau, các anh Kiên Giang, Sơn Nam, nhà văn yêu nước Vũ Hạnh (Nguyễn Đức Dũng) cùng nhà báo Mặc Tuyền, các anh tặng sách, gởi sách cho chúng tôi bán hộ và không quên nhắc nhở nhóm biên tập giữ vững lập trường dân tộc. Những cây bút văn nghệ tại Cần Thơ lúc ấy : Ngũ Lang, Nguyễn Bá Thế (Nhất Tâm, Nam Xuân Thọ), Huyền Vân Thanh… là những tác giả thường có thơ được Kiên Giang chọn ngâm và bình trong chương trình của ban thi văn Mây Tần do anh phụ trách trên đài Phát thanh. Ngày nay, những anh em cùng nhóm dạo ấy, nếu may mắn còn khỏe mạnh và được gặp lại nhau, thường không quên nhắc lại những kỷ niệm đẹp về nhà thơ quá cố Kiên Giang kèm theo những lời chia sẻ ân tình chung thủy về một bậc văn nghệ đàn anh.

Tóm lại, Kiên Giang là một khuôn mặt thơ đáng kính trong dòng thi ca yêu nước suốt cả hai thời kỳ đấu tranh chống thực dân và đế quốc. Tài hoa ở nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng tài năng trên văn đàn, sân khấu mà còn nổi bật nhân cách ở sự nhạy bén trong hoạt động và đấu tranh xã hội. Chính nhà văn Sơn Nam, người bạn cùng quê và “đồng thanh khí” của Kiên Giang đã chân tình thổ lộ : “Đây là người bạn cùng xóm, cùng làng, cùng xứ U Minh mà tôi lấy làm tự hào và thật lòng ca ngợi”. Nội dung thơ Kiên Giang thiên về đề tài quê hương, làng xóm, tình yêu đất nước và sinh hoạt dân dã nơi làng quê. Về nghệ thuật, ít khi nhà thơ dùng từ hoa bay bướm như Nguyễn Bính vốn là một nhà thơ gần gũi với ông. Lời thơ Kiên Giang giống như cuộc đời thi sĩ, luôn sáng trong, giản dị, như tiếng nói tự nhiên, mộc mạc của người Nam bộ nên rất giàu tính nhân văn, được nhiều người thuộc lòng. Do vậy, ta có thể nói : thơ Kiên Giang đậm tính “về nguồn”, và tạo nên một sắc thơ đặc biệt của miệt vườn.  

                                                                                  01. 01. 2024  

                                                                                        N. T

 (1)  Xem KTNN số 834  ra ngày 10.10.2013 bài “Danh sĩ và giai nhân” của Ngũ Lang, tr. 13

(2)  Cũng là tên tập thơ của Kiên Giang, do họa sĩ Duy Liêm vẽ bìa. NXB Phù Sa Sài Gòn ấn hành trước 1975

(3)  “Văn nghệ Miền Tây”, Tạp chí Văn nghệ (1967-1970) ra được 5 số, do Ngũ Lang chủ trương biên tập, cùng  sự cộng tác của một số nhà văn, SVHS có tư tưởng tiến bộ  và lập trường dân tộc, yêu nước, chống xâm lược. Số đặc biệt Xuân Mậu Thân (1968)  được GS. Pháp văn Nguyễn Bá Thảo - nguyên Phó Chủ tịch MTDTGP Khu Tây Nam bộ mang ra chiến khu (5/1968)

(4)  “Lập trường”, tạp san Xuân 1970 ra tại Vị Thanh (nay là Hậu Giang)  do Ngũ Lang chủ  trương biên tập với sự cộng tác của Nguyễn Bá Thế, Nhất Tâm, Sơn Nam, Kiên Giang...      

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm