TIN TỨC

Dòng ban mai trong thơ Trần Hùng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-11-18 15:59:20
mail facebook google pos stwis
310 lượt xem

Mai Văn Phấn

 

Tập thơ "Mắt mắt khuya từng đàn" (NXB Hội Nhà văn, 2023) của Trần Hùng dẫn tôi vào một sớm đang tan sương, có thể ứng với bất kỳ mùa nào trong năm. Khi ấy hừng đông đã rạng, sưởi ấm cho khắp miền không gian nơi con người cùng vạn vật vừa thức dậy. Một ban mai không ngưng đọng mà dịch chuyển, cuộn chảy trong bầu không khí thanh sạch, tinh khôi. Dòng chảy ấy khai mở một ngày mới trong tâm tưởng bạn đọc, bảng lảng, đột sáng và trong suốt.

 

 

Một ly vỉa hè

Lặng im và chuyển động

Giọt giọt trên đường

        dòng dòng đen bò vào miệng cống

Vừa khóc vừa hát

Mở to trong veo đi nào

(Café vỉa hè Khâm Thiên)

 

Có thể nói, một dòng chảy lạ kỳ đã xuyên suốt tập thơ này, với tốc độ và nhịp điệu này. Nếu coi mỗi bài thơ của Trần Hùng là một cột mốc trong hành trình sáng tạo, câu hỏi đặt ra là: những đoạn chảy qua từng địa phận kia có khác nhau không? Câu trả lời là khác, dĩ nhiên khác. Khác từ kết cấu bài thơ, độ mở ánh sáng, đến kiến tạo hình ảnh, sử dụng tu từ. Mỗi đoạn chảy đều dung chứa áp lực riêng, tùy vào lưu lượng thơ. Đây là đoạn trong tập thơ có "lưu lượng" lớn, áp lực mạnh:

 

Tận cùng đường hoang mây hoang rồi

Dừng lại đi nào vó hoang ơi

Bên bờ vực sâu đầy hoa

Dòng hoa dâng dâng đỏ

Dưới vực sâu là một lâu đài

Lâu đài đầy khói

(Vào ngực)

 

Dĩ nhiên khó ước định chính xác "lưu lượng" của đoạn thơ trên, nhưng những chỉ số của nó (mây hoang, vó hoang, bờ vực, lâu đài, khói...) xuất hiện tựa những điểm sáng nhấp nháy đa bội, vẫy gọi sự tưởng tượng, gợi hình dung về một dòng chảy vô hình, cuộn xiết. Những hình ảnh thoắt ẩn thoắt hiện trong bài thơ trên cũng nhắc ta nhớ tới một trò chơi "cút bắt" trong dân gian xưa. Ở đây tâm trạng trì níu, cuốn hút của cảm xúc đã khiến người đọc không thể dứt ra khỏi văn bản, mà phải chiêm ngẫm thêm. Đây có lẽ là một thủ pháp rất ảo diệu, có phần "ma thuật" của Trần Hùng trong nghệ thuật cấu tứ, kiến tạo hình ảnh cho một số tập thơ gần đây của ông. Xin dẫn một đoạn thơ khác trong tập có cách viết tương tự:

 

Đinh

Tự nhổ khỏi tường

Cây

Tự bật khỏi đất

Cá heo từ chối sóng

Bóng người buông từ tầng cao

Rung lắc từ đâu

(Biệt sinh)

 

Lối liệt kê những hình ảnh cách xa sự tương tác giữa chúng trong một bài thơ dường như là phong cách của phần lớn những tác giả theo khuynh hướng cách tân hiện nay. Những hình ảnh ấy dịch chuyển trong không gian rộng, được nối thông với nhau bằng liên tưởng và cảm xúc mạnh của người viết, tạo một trường liên tưởng thống nhất, có chung hấp lực. Ở thơ Trần Hùng, ngoài giềng mối tôi vừa nêu, phần lớn những thi ảnh của ông như có sợi dây vô hình dẫn tới nền tảng thơ truyền thống. Sợi dây ấy không vướng vít, buộc chặt mà chỉ "dẫn tới" cái đích mà nhà thơ đặt định. Chúng xuất hiện tựa những dấu mốc chỉ đường trên con lộ thênh thang trước khi tới nhiều ngã rẽ. Cái "dấu mốc" mà tôi vừa liên tưởng trong bài thơ trên cũng chính là lát cắt, thước phim quay nhanh về một đời sống hiện đại, tiện nghi nhưng đầy bất an, sôi động và quá nhiều áp lực. Khổ thơ trên cho thấy, cái đinh quen thuộc tự nhổ ra khỏi tường, cái cây (bất kể cây gì) đang tự bật ra khỏi mặt đất. Và con người, muốn đoạn tuyệt với cội nguồn, từ bỏ thân phận, trốn chạy khỏi tổ ấm gia đình, xã hội, tìm đến cuộc sống ẩn dật, hoặc quyên sinh. Tại Nhật Bản, một cường quốc công nghiệp phát triển, người ta gọi những đối tượng như vậy là những người "bốc hơi" (johatsu). Những "johatsu" thay tên đổi họ, muốn xóa đi mọi dấu vết mà họ đã để lại trong đời sống này. Trong một đời sống xáo trộn, đổ vỡ, ngổn ngang đặt bày trong bài thơ trên, tôi thực sự bất ngờ và thán phục trước sự xuất hiện của nhân vật "Tôi" trong đoạn kết bài thơ "Biệt sinh" này của Trần Hùng.

 

Tôi như thạch sùng

                   lặng im bên những chiếc đinh

Nghe đêm vỡ từ sợi chuông rất mảnh.

 

Nhân vật "Tôi" chính là tác giả bài thơ mang thân phận mỏng manh với trái tim lớn, tự treo mình lên, rung những hồi chuông cảnh báo.

 

Trong những bài thơ có "lưu lượng" lớn, các thi ảnh thường xuất hiện trên văn bản không lâu, chỉ thoáng qua đôi lúc. Chúng tựa những con sóng nhấp nhô, hoặc thấp thoáng trong không trung rồi nhanh chóng hòa vào dòng chảy.

 

Một lát gừng

Một chút muối

Lặng lẽ trước cơm

(Sợ hơn cái chết)

 

Hay:

 

Cây cao lân tinh thân cau

Nâu nâu rơm phơi trăng thâu

Cây thu

Không lá không hoa

Vươn lên âm u

(Cây thu)

 

Đỉnh của "những con sóng nhấp nhô" mà tôi vừa dẫn tựa những nét phác thảo của bức tranh khổ lớn, gồm nhiều nét vẽ dở dang, những khoảng trống, để bạn đọc tiếp tục tự hoàn thiện nó bằng sắc màu tưởng tượng. Đặc trưng lối kiến tạo dòng chảy có "lưu lượng" lớn của Trần Hùng, theo tôi, được quy tụ trong bài thơ "Len sáng":

 

Cá hoang suối xa

Áo đen núi xa

Sương treo đầu kiếm

Đâu đó ơi

Có gì không dứt

Mỏng mảnh như tơ

Len theo mạch vào tim

Rồi trở lại

...

Tôi - căn phòng không cửa.

 

Những hình ảnh trong bài thơ trên xuất hiện tựa nghệ thuật sắp đặt hiện đại, nó nằm trong không gian ba chiều, khiến người đọc vừa là chủ thể vừa là khách thể, vừa chiêm ngưỡng sự vật bên ngoài vừa hòa mình vào những ý thơ. Sự đan xen của những "Cá hoang suối xa", "Áo đen núi xa", "Sương treo đầu kiếm" còn cho ta liên tưởng tới những nét vẽ cổ xưa, bằng nét màu tươi sáng và thanh tịnh trong tranh thủy mặc, thấp thoáng hình bóng tráng sĩ, khuôn trăng, cảnh vật... Câu thơ "Đâu đó ơi" chính là tâm điểm để kết nối những phân mảnh, hình ảnh đơn lẻ, vụn rời của bài thơ này. Câu thơ ấy tựa tiếng gọi, vang xa tới những điểm chạm của đôi bờ dòng chảy, mang lại cảm giác thân thuộc, như có thể với tay là tới được mọi vật dụng, chạm được vào niềm thương mến khôn nguôi; và, có thể nghe được từng nhịp chuyển động, hơi thở của đời sống đang biến động. Hình ảnh kế tiếp hình ảnh, không gian nối tiếp, đan cài không gian trong bài thơ trên cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của tác giả được phô bầy, ẩn hiện, cả những nỗi niềm ẩn giấu trong đó như dần được khơi lộ.

 

Và đây là đoạn chảy với khoảng cách đôi bờ hẹp hơn, độ sâu "mớn nước" của nó cũng dễ dàng nhận biết, có thể nhìn thấy đáy nước:

 

Chữ chữ

Hút vào nếp nhăn

Trên những gương mặt

Vừa nghẹn vừa nuốt

Chữ chữ

Như tóc rối

Trong ống nước

Như mắt cá

Trong bùn

Như bulong

Như nan hoa

Xoay

(Phận chữ)

 

Trong đoạn thơ trên, khoảng cách giữa các thi ảnh và đích đến của nó dường như gần lại, nhưng vẫn nằm trong kết cấu phân mảnh, vụn rời, tạo cảm giác chênh vênh, gai góc.

 

Những thi ảnh có mối quan hệ gần, được đặt cạnh nhau, nhưng lại vươn tới những mục đích khác biệt. Đôi lúc tác giả cũng cố ý như đánh đố người đọc về cái đích mà ông muốn hướng tới, như bài thơ "Rắn xanh":

 

Nhói

Rắn xanh trong giầy

Ga rô

Ga ra

 

Như ong

Người đi rồi

 

Nhưng đa phần, ông bộc lộ rõ ý đồ của mình ngay trong từng hình ảnh cụ thể:

 

Rưng rưng lá non từ đâu về

Trên lá non một giọt sương hồng

(Sớm mùng ba)

 

Khá nhiều hình ảnh đứng gần nhau, cùng chung manh mối, được Trần Hùng kiến tạo trong tập thơ "Mắt mắt khuya từng đàn". Khoảng cách giữa những thi ảnh ấy chính là độ mở của không-thời-gian mà tác giả ước định. Đoạn thơ dưới đây tựa một khu vườn vừa mở ra, lạ lẫm mà thân quen, lao xao mà tĩnh mịch.

 

Căn nhà kia có gì

Mà vào ra như ong

Bờ trăng kia có gì

Mà chuồn kim lao xao

Thẳm sâu kia có gì

Mà bóng bóng lặng im

(Mộ trăng)

 

Trong đoạn thơ trên, Trần Hùng đã sử dụng điệp từ "bóng bóng", cũng như nhiều điệp từ khác xuất hiện trong tập thơ này, như "xoe xoe" (Nghe xoe xoe ong đen), "giọt giọt" (Giọt giọt mơ biển; Mắt nhớ giọt giọt sen xanh), "chữ chữ" (trong bài thơ Phận chữ), "bay bay" (Hoa lau bay bay xuôi đèo), "ngón ngón" (Ngón ngón buông lơi), "phơi phơi" (Phơi phơi đâu đó ơi), "ngàn ngàn" (Ngàn ngàn ngón lá)... Hay, trong chính tiêu đề tập thơ này: "mắt mắt" (Mắt mắt khuya từng đàn). Cách dùng điệp từ này được sử dụng khá nhiều trong những bài đồng dao xưa, như "Chi chi chành chành", "Nu na nu nống", "Dung dăng dung dẻ"... Bạn đọc cũng đã gặp nhiều điệp từ trong một số tập thơ của Trần Hùng xuất bản trước đây, như "Thảm thắc", "Vườn khuya" (2015), "Mùa xa" (2019)...

 

Một số bài thơ trong tập tuy không sử dụng điệp từ, nhưng âm hưởng của chúng khá gần với đồng dao, với nhịp điệu quen thuộc, kết cấu hiện đại, ngôn từ gần với dân dã mà đa nghĩa:

 

Ngày ấy lâu rồi

Phơi phơi đâu đó ơi

Bậm chân đều đều

Giăm cối thóc vỡ

Áo đơm cúc vỡ

Tre thơm ngỡ trưa

Chim động vườn khuya

(Ới a)

 

Hay:

 

Rồi mưa rung mưa rây zích zắc

Ai mang áo tơi mang áo tôi

Rồi gai lên lơn tơn lóc tóc

Sấm lên măng sấm ngồng

(Đồng dao)

 

Ngôn ngữ thơ Trần Hùng thường hướng tới sự tối giản mà hàm súc. Thi ảnh của ông khoáng hoạt, thơ mộng, thoáng ẩn thoáng hiện như những bức tranh lụa, mang cho người đọc cảm giác trong suốt, thanh thoát, hàm chứa nhiều bí ẩn cần tiếp tục giải mã. Theo cách vẽ tranh lụa hiện đại, khi màu đã khô, họa sĩ có thể rửa lụa nhiều lần cho sạch mặt lụa và để màu ngấm vào từng thớ lụa, rồi tiếp tục vẽ cho tới khi vừa ý. Trần Hùng dường như đã áp dụng thủ pháp này để tạo những hình ảnh ẩn hiện, lung linh, nhưng đầy tính hiện đại. Những câu thơ dưới đây cho thấy tác giả đã cân nhắc, lựa chọn kỹ lưỡng biện pháp tu từ, nhưng biết buông thả hình ảnh đúng lúc để tứ thơ được cất cánh, thênh thang.

 

Nghe lũ chim câm

Ngủ mê trong bóng cây đáy nước

(Chim câm)

 

Mở to nhìn về bầu trời

Tiếng khóc đâu đó cao như tiếng sếu

(Cây thu)

 

Vết thương lên lá non rồi

Mà trăng vẫn bầu đêm vắng

(Sương nữ ca)

 

Có thể nói, thủ pháp "tranh lụa" trong tập thơ "Mắt mắt khuya từng đàn" là bước đi tiếp theo của một số tập thơ mà Trần Hùng đã xuất bản trước đây, như "Thảm thắc", "Vườn khuya" (NXB Hội Nhà văn, 2015), "Mùa xa" (NXB Hội Nhà văn, 2019)... Chúng có chung một không gian thơ bảng lảng, trong trẻo và giàu nhạc tính. Nhưng "Mắt mắt khuya từng đàn" là nơi lắng đọng, có kết cấu hiện đại và tối giản hơn so với những tập thơ đã in. Nhân đây tôi muốn nhắc tới tập thơ đầu tay "Gọi Bạn" (NXB Thanh Niên, 1991) của ông. Tập thơ này có nhiều bài cách tân mạnh mẽ, với lối kiến tạo hình ảnh ấn tượng, mang cho người đọc cảm giác như nghe tiếng rạn nổ của dòng sông băng, nhọn sắc và bạo liệt. Nó dự báo giai đoạn bứt phá tiếp theo của tác giả, khác với phong cách thơ của ông bây giờ.

 

Khép lại với "Mắt mắt khuya từng đàn", tập thơ mà tác giả của nó đã bước qua tuổi "lục thập nhi nhĩ thuận" (Luận Ngữ, Khổng Tử), theo học giả Nguyễn Hiến Lê câu này có nghĩa "Sáu mươi tuổi thì thuận theo mệnh trời". Nhà thơ Trần Hùng đã đi được những chặng đường dài trên hành trình sáng tạo. Qua những cung bậc cuộc đời, thơ của ông được lọc đến trong suốt, ngày càng giản dị và gần gũi. Điều kỳ diệu này không phải ai cũng làm được. Tôi xin mượn bài thơ "Đẳng cấp" của Trần Hùng để thay cho lời kết, cũng là lời chúc mừng chân thành của tôi gửi tới ông.

 

Đâu phải lúc nào cũng hót

Đâu phải cứ hót là mê ly

Nhưng chỉ cần cất tiếng

Biết đó là họa mi.

 

Hải Phòng, 4/11/2023

M.V.P

 

 

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người trẻ thử sức với phê bình
Được biết “Những phức cảm phận người” (NXB Hội Nhà văn, 2023) là tập phê bình văn học (PBVH) đầu tay của cây bút Lê Hương, nên tôi đọc với một tâm thế trân trọng và chờ đợi.
Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm