TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Đừng nhìn em như thế - Một bức tranh “Trì biệt” duyên tình muôn thuở...

Đừng nhìn em như thế - Một bức tranh “Trì biệt” duyên tình muôn thuở...

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-09-19 07:45:51
mail facebook google pos stwis
1133 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM

Sinh 1955 tại thôn Nhữ Xá, xã Hoằng Anh,  huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. 

Tốt nghiệp khoa Ngữ văn, ngành Ngôn ngữ , Đại học Tổng hợp Hà Nội  1981, ( K22) , nguyên Phóng viên Thời  báo Ngân hàng.

Hiện hưu trí tại TP.HCM. 

 

Lời đầu thưa trước:

• Một lần vào trang “Văn chương thành phố Hồ Chí Minh”, tình cờ tôi thấy tin Lê Thị Kim được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải “Nhà văn ấn tượng nhất năm 2023” của thành phố mang tên Bác. Thực tình, tôi vốn không thích thứ bậc nhất nhì... cụ thể của các loại giải thưởng... nhưng lại rất thú vị với cái danh xưng “ấn tượng”... đầy khiêu khích trí tò mò kia. Nên lần hồi tìm kiếm, mới hay, Lê Thị Kim đích thực là Nhà thơ, Họa sỹ, lại còn là một Doanh nhân thành đạt nữa.

Phải mất mấy giờ lướt Web... tôi mới biết từ lâu Lê Thị Kim đã nổi tiếng trên “thương trường Thi – Họa”...  Tôi chăm chú đọc được khá nhiều lời giới thiệu, bài bình luận và cả ca khúc phổ nhạc bài thơ “Đừng nhìn em như thế”, (có đến bốn nhạc sỹ phổ nhạc bài thơ này). Rồi tôi biết, chẳng phải mới đây, mà thi phẩm “Đừng nhìn em như thế” đã có mặt trên thi đàn, từ những năm 80 của thế kỷ trước, nhưng đến nay nó vẫn dành được mến mộ của công chúng yêu Thơ, yêu Nhạc. Thế thì phải vào Thi Việt đọc bài thơ thôi!...

1.  Và đây là bài thơ có trên Thi Việt:
 

Đừng nhìn em như thế


Đừng nhìn em như thế

Cháy lòng em còn gì

Sự nồng nàn của bể

Cuốn mất hồn em đi

 

Đừng nhìn em như thế

Khắc giờ thành thiên thu

Mắc nợ đời dâu bể

Mắc nợ đời thơ si

 

Em đành làm chim nhỏ

Đứng hót chơi trong chiều

Thả đôi lời hoa cỏ

Cho đời bớt tịch liêu

 

Bởi tình yêu có thật

Vĩnh cửu trong cuộc đời

Bởi ghen tuông có thật

Xuống mồ biết có thôi

 

Đừng nhìn em như thế

Sự dịu dàng nhường kia

Sẽ làm em chết ngạt

Hết một đời thơ si.

 

2.  Tôi đã đọc “Đừng nhìn em như thế” trong xúc cảm ngập tràn... Và,... Rồi tôi bỗng thấy những gì đã được bình phẩm về bài thơ, mà tôi đã đọc được trên Web, khác hẳn với cảm thức của mình. Dưới đây, tôi muốn góp thêm cái thức cảm khác ấy, về bài thơ của “Nhà văn ấn tượng nhất...” Lê Thị Kim dưới tiêu đề: “Đừng nhìn em như thế - Một bức tranh “Trì biệt” duyên tình muôn thuở...”

2.1. Nhưng Trì biệt  là gì?

Trước tiên, ở đây tôi muốn bạn hãy đem từ khóa kia hỏi Google, sẽ biết khái niệm Trì biệt, do Jacques Derrida đề xuất, được hình thành từ sự kết hợp giữa từ difference (nghĩa là sự khác) và deferral (nghĩa là sự trì hoãn) [chữ tiếng Pháp]. Đó là một trong những khái niệm cốt lõi thuộc hệ thống triết học nổi tiếng thế giới hiện đại của triết gia Jacques Derrida ...

2.2.  Và, theo GS.TS Lê Huy Bắc thì, xin trích:

“Trì biệt “nghĩa” trong “chữ” của Derrida đến từ cấu trúc nội tại của nó trong mối tương tác từ vựng của chữ viết trước và sau nó, của những cấu trúc diễn ngôn lộ rõ hay ngầm ẩn, mà nó được đặt vào. Ngoài ra, trì biệt còn là sản phẩm của những tương tác văn hoá. Vấn đề này khá phức tạp, bởi chí ít là có ba lớp văn hoá (hay mã) được lưu giữ trong chữ: ấy là văn hoá của chính chữ đó, văn hoá của người sáng tạo và văn hoá của người tiếp nhận. Vậy nên, chữ là nơi giao nhau của nhiều lớp văn hoá để định hình nghĩa. Trong nhiều trường hợp, chữ được khai sinh cũng nhờ sự trì biệt này”.

(Nguồn: https://daihoctantrao.edu.vn/khoa-hoc-cong-nghe/jacques-derrida-va-tri-biet-ngon-tu-966.html).

3.  Vâng, với tôi, “Đừng nhìn em như thế” là “một bức tranh “Trì biệt” duyên tình muôn thuở...” mà nhà thơ Lê Thị Kim đã khắc họa bằng ngôn ngữ Thơ. Bức tranh ngôn ngữ Thơ ấy đã được tôi cảm nhận với những sắc màu... là như thế này đây:

3.1. Thoạt đầu, “Đừng nhìn em như thế” hiện ra trước mắt tôi là hình ảnh một người con gái đang độ xuân thì. Em ngồi đó, một mình, trong tâm trạng còn chưa hết bàng hoàng... khi vừa bỗng tiếp nhận được cái ánh nhìn “sét đánh” của chàng trai đang yêu... trong cái khoảng khắc gặp gỡ duyên tình “đường xa nghĩ nỗi sau này...” biết có còn gặp lại, như cái nhìn như thế... nữa không? Bởi người thì đã đi... nhưng ánh nhìn kia thì vẫn ghi tạc trong tâm thức em, thiêu đốt lòng em, khiến em miên man, em hoang mang, em tự bủa lưới vây mình trong muôn vàn câu hỏi... không lời đáp...

3.2.  Tôi thấy, “Đừng nhìn em như thế”, đúng là tâm thức của em ở chính cái khoảnh khắc tiếp nhận ánh nhìn kia rồi; nhưng chưa phải đã là lời em thốt ra, mà chỉ là tiếng lòng em vẫn còn giấu kín. “Đừng nhìn em như thế” không phải là lời trách cứ, van xin, mà chỉ là trạng huống hoảng hốt của em trước một điều đang đợi chờ chẳng ngờ đã đến. Để rồi “Đừng nhìn em như thế” trổi dậy biết bao hy vọng, nhập nhòa ánh lửa tình ước nguyện chung đôi. Và, chen lẫn nỗi niềm duyên lành đang đến, là cả dự cảm niềm yêu có phải sự tình biết đâu rồi có thể sẽ chia xa?...

3.3.  Bạn thấy sao? Có phải thế không ư ?

Phải đấy! Bạn hãy đọc “Đừng nhìn em như thế” với tư cách là một câu trong ngữ cảnh của cả văn bản bài Thơ. Cũng chớ cảm nhận “Đừng nhìn em như thế” như một lời nói –  kể cả khi nó là những tiếng câm –  đứng ngoài văn bản. Bạn hãy nhìn để thấy đó là những chữ viết ra để định hình một kết cấu ngôn từ. Chỉ khi đọc với một cảm quan như thế, bạn sẽ thấy sức trì biệt vô tận ngữ nghĩa của cái ánh nhìn yêu đương, như một phúc hạnh tạo hóa đã ban tặng cho con người; sẽ thấy trong chữ có lời, mà không phải chữ chỉ là ký tự của lời như xưa nay người ta vẫn tưởng thế!

3.3.1. Tôi bắt đầu từ chữ “thế” ở cuối câu cảm thán, trong kết cấu nơi đầu đề bài thơ, mà trên kia tôi nhận thấy đó như là tông màu chủ, tạo ra bức tranh với sức trì biệt ngữ nghĩa diệu kỳ của thi phẩm này... Mách bạn ngay, là hãy tìm xem: Từ điển Tiếng Việt 1998, trang 901, mục từ {THẾ}, để xem, khi được dùng ở cuối câu, chữ “thế”  “trợ từ” đã “biểu thị ý ngạc nhiên khi nhận thức ra mức độ cao của một (...) tác động trực tiếp đến mình, hoặc của một trạng thái tình cảm của (chính) bản thân mình”.

3.3.2. Bởi thế, ngay từ đầu, tôi đã nói, “Đừng nhìn em như thế” là cái nhìn “sét đánh” từ phía đối tác, bỗng ánh lên trong chỉ một khoảnh khắc; nhưng thực thì ngọn lửa chung tình kia đã âm ỉ từ lâu, để giờ mới đến, như một định mệnh, của phút cơ duyên định quyết này. Chưa hết, chữ “thế”  “trợ từ” đứng cuối câu cảm thán, kết hợp với “như”, một “kết từ”, đã chỉ ra mức độ rất cao của quan hệ tương đồng. Và, khi cùng nhau tạo nên kết cấu “như thế”, nó cho ta thức nhận rằng, ánh nhìn với cường lực “tia chớp” ấy, quyết không thể là một ngẫu hứng, hay vô duyên bất chợt.

3.3.3.  Hai chữ “như thế” , đến lượt nó lại tạo thêm sức trì biệt ánh nhìn, để nói với ta rằng ngọn lửa tình anh –  em đã nhóm từ lâu. Ánh nhìn “như thế”, sở dĩ xuất hiện, chính bởi nó vừa bị một tác nhân nào đó kích hoạt, nhưng ánh nhìn rõ ràng là một nhân tố được sinh ra từ độ chín của cả một quá trình. “Như thế”..., vậy là đã thông điệp sức mong đợi đã đến từ mong đợi; là ánh nhìn phát ra từ chờ đợi, đã được tiếp nhận bằng tất cả đợi chờ. Cái nhìn, với ánh nhìn “tia chớp” đã “kích hoạt” miền ý thức yêu đương, như mây đã tích tụ, như sấm chớp sẽ nổ ra, như là... một tất nhiên phải đến!...

3.3.4.  Giờ đến “nhìn” – “động từ” chính của câu thơ đầu đề, được buộc phải đứng sau “phụ từ” “đừng” làm nên kết cấu “đừng nhìn”, khiến ánh lửa tình trì biệt cháy suốt thi phẩm. Bởi “đừng nhìn” nổi lên đối tượng là “em”, nhưng cái đích của sự nhìn, chìm dưới ánh nhìn, lại là “như thế”, mà không phải là “em”. “Như thế” trong kết cấu câu thơ bỗng tạo sinh nghĩa mới, là ý niệm mà không phải là khái niệm, như một kết quả về đối tượng. Ý niệm đó là một cái vô cùng, tùy vào tâm trạng, hoặc tùy vào linh cảm mách bảo, mà thả sức định biệt, thế thôi. “Nhìn” mà, nhất lại là ánh nhìn chói sáng ngọn lửa tình, chứ không phải là cái nhìn của một sự quan sát thị giác để nhận biết đối tượng... là như thế đấy!...  

4.  Và bạn thấy đấy, ánh nhìn cứ thế rực lên sức sáng lớp lớp xung động sóng trào!

4.1.  Lớp sóng xung động “Như thế” đầu tiên là sức cháy có thể thiêu đốt “lòng em”, đẩy đến bước sóng tiếp theo là “Sự nồng nàn...”, nhưng là “nồng nàn của bể” lớn, trì biệt nhịp điệu và cường độ, trào lên rồi dội xuống... tưởng có thể “Cuốn mất hồn em”. 

4.2.  Ánh nhìn tạo lớp sóng sáng “như thế” thứ hai, tưởng chỉ “khắc giờ”, nhưng là “thiên thu”, nhưng là “dâu bể”, “thơ si” thiên di muôn mãi một tình yêu, như “nợ đời” nhận – chia của kiếp sống con người, trong tình yêu thương bất diệt...

4.3.  Rồi vô thường trở lại, con “chim nhỏ” lơ đãng “hót chơi”, buông vào chiều những lời “hoa cỏ”. Bởi có thật, là tình yêu vẫn “như thế”  tồn sinh, ngọt bùi, cay đắng, trách cứ, hờn ghen... Tình ta đó anh, sẽ trải hết, thấu hết, biết hết...

4.4.  “Bởi tình yêu có thật/ Vĩnh cửu trong cuộc đời/ Bởi ghen tuông có thật/ xuống mồ biết có thôi”. Là không thôi được đâu anh! Bởi tình yêu là trải nghiệm những cung bậc xuân thì, khởi thủy – chung cuộc... hạnh phúc nào ai biết trước...

4.5.  “Đừng nhìn em như thế” rốt rồi cũng đã trở lại – một trì biệt ngữ nghĩa sau cuối:

“Đừng nhìn em như thế

Sự dịu dàng nhường kia

Sẽ làm em chết ngạt

Hết một đời thơ si.”  

Và tôi biết, tôi tin “Sự dịu dàng nhường kia”, sẽ đưa cuộc tình “tia chớp” đi “Hết một đời thơ si” ...

5. tóm lại: “Đừng nhìn em như thế” là câu chuyện về cái khoảnh khắc ánh nhìn bừng sáng một tình yêu đẹp! Nhịp điệu đồng dao xưa thật đắc dụng dưới bàn tay khắc họa tài hoa của thi sỹ – họa sỹ Lê Thị Kim. Tôi không ngạc nhiên khi đã có đến bốn nhạc sỹ lấy bài thơ của bà làm lời cho nhạc khúc tình ca của mình. Để gần nửa thế kỷ qua, cả thơ và nhạc vẫn giữ được tình yêu của công chúng. Lê Thị Kim thật xứng danh nữ  “Nhà văn ấn tượng” của Thành phố Hồ Chí Minh, vừa được Hội Nhà văn Việt Nam vinh danh...


Bài rút từ tập "Thơ như tôi hiểu...", sắp xuất bản:


Bìa: Nguyễn Bấc

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm