TIN TỨC

Được trở về với mẹ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
504 lượt xem

BÀI HƯỞNG ỨNG CUỘC THI CUỘC THI "ĐỀN ƠN ĐÁP NGHĨA"

TRẦM HƯƠNG

Tôi nhớ như in lời con nói trước lúc ra đi: “Mẹ yên tâm, tuy con còn nhỏ tuổi nhưng con không xốc nổi. Đã đi theo cách mạng thì không bao giờ quay gót, phản bội”.


Bà mẹ VNAH bên di ảnh liệt sĩ Đặng Văn Rêu.

Mẹ Huỳnh Thị Xem, ở xóm chùa, xã An Phú, huyện Củ Chi là nhân chứng của một thời phụ nữ sống trong tăm tối, tủi nhục dưới chế độ thực dân phong kiến. Sinh ra trong một gia đình nghèo, đông con, cô gái tên Xem sớm tháo vát, trở thành trụ cột chính, đỡ đần cho cha mẹ nuôi đàn em. Ở tuổi 84, ký ức thời thiếu nữ làm công nhân cạo mủ cao su vẫn nguyên vẹn trong lòng mẹ. Đời công nhân cạo mủ rất cơ cực. Thức dậy vào lúc 3 giờ sáng, cô gái đang tuổi ăn tuổi ngủ quàng vội chiếc khăn lên đầu, cầm lấy dao và thùng ra khỏi nhà. Sương khuya ướt lạnh, muỗi dày đặc, cô gái lầm lũi cạo mủ, cho đến trưa mới trở về nhà. Dòng nhựa trắng đổ vào sự phồn vinh của những chủ đồn điền, những ông chủ Tây. Đời công nhân cứ thế trôi đi trong đói nghèo, lặng lẽ giữa cánh rừng cao su…

Nhật đảo chánh Pháp. Rồi Cách mạng tháng Tám. Cô gái mới 17 tuổi năm ấy bắt đầu hiểu ra những điều từ lâu bị che phủ bởi rừng cao su dày bịt. Đó là sức trỗi dậy của một dân tộc đòi độc lập tự do. Làng xóm quê hương cô dường như được thổi vào luồng sinh khí mới. Ở An Phú và các xã lân cận, bà con kéo nhau về Sài Gòn, dự mít-tinh mừng độc lập. Những ngày ấy, ở làng bên có anh thanh niên tên Đặng Văn Bèo cậy mai mối cưới cô về làm vợ. Lúc đầu, cô không chịu lấy chồng vì không biết, không quen. Nhưng gia đình đã nhận trầu cau, với quan niệm “Áo mặc sao qua khỏi đầu”, “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, cô đành phải chấp nhận cuộc hôn nhân với anh Bèo. Sau thời gian sống chung, tình cảm dần nảy nở. Lần lượt, 8 đứa con ra đời…

Làn gió Cách mạng tháng Tám thổi bùng lên lòng yêu nước tiềm ẩn trong mỗi con người. Pháp quay trở lại, tái chiếm Nam kỳ. Đôi vợ chồng trẻ cùng tham gia kháng chiến. Chồng mẹ gia nhập lực lượng dân quân. Mẹ cùng bà con Củ Chi đốn tre rào xã chiến đấu. Nhắc đến những năm tháng chống Pháp hào hùng, mẹ sôi nổi hẳn lên. Mẹ kể mạch lạc về các phong trào của Phụ nữ Cứu Quốc mà mẹ đã tham gia, nào “Hũ gạo nuôi quân”, canh gác báo cáo tình hình địch, phong trào đời sống mới, sản xuất, đóng góp lương thực nuôi quân… Mẹ sôi nổi kể về phong trào bình dân học vụ. Mẹ chưa từng biết chữ. Nhờ mấy lớp học “bình dân” mà mẹ biết đọc, biết viết. Để minh chứng cho những lời mình nói, mẹ lấy bút, ghi nắn nói vào quyển sổ tay ghi chép của tôi chữ “Xem”. Mẹ nói: “Cũng là chữ ký của tôi đó!”. Bà mẹ trước mặt tôi, với vẻ mặt phúc hậu, tuổi cao, sức yếu nhưng quý báu biết bao, khi chính bản thân mẹ là nhân chứng sống động, vừa là người góp phần vào của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Mẹ nhớ tên từng đứa con, với từng kỷ niệm yêu thương.

Mẹ kể: “Ở quê, đặt tên con mộc mạc lắm. Chồng tôi họ Đặng… Vậy là tôi đặt tên các con: Đặng Văn Rong, Đặng văn Rêu, Phạm Văn Ba, Đặng Thị Thơ, Đặng Văn Lơ, Đặng Văn Nhanh, Đặng Văn Mơ, Đặng Văn Đắc, Đặng Thị Mộng”. Tôi thắc mắc hỏi mẹ: “Các con mẹ đều mang họ Đặng, sao một anh lại có tên “Phạm Văn Ba?”. Mẹ cười hồn hậu nói: “Đó là đứa cháu. Cha nó chết, lúc nó còn trong bụng mẹ. Sanh ra nó mới mấy tháng, mẹ nó lấy chồng khác. Tôi nuôi thằng Ba từ nhỏ. Không phải là con ruột nhưng nó thương tôi lắm!”. Ở Củ Chi, có rất nhiều những bà mẹ nghèo như mẹ Huỳnh Thị Xem nhưng tấm lòng rộng mở. Trong đói nghèo, cuộc sống gian khổ, khó khăn, mẹ vẫn sẵn lòng cưu mang, đùm bọc đứa trẻ mồ côi cha lẫn mẹ. Và mẹ đã được đền đáp bằng yêu thương…

Hai người con của mẹ lên đường đi chiến đấu cùng một lượt. Đó là anh Đặng Văn Rong và anh Phạm Văn Ba. Dẫu nhiệt tình, ủng hộ các con thoát ly gia đình đi đánh Mỹ nhưng mẹ không tránh được sự trống vắng, hẫng hụt. Chấp nhận cho những đứa con trai đang tuổi lớn, là nguồn lao động chính của gia đình tham gia quân giải phóng cũng là một đóng góp to lớn cho cách mạng. Nhìn những đứa con trai cao lớn, khỏe đẹp, mẹ không khỏi chạnh lòng, nhớ những ngày gian khổ nuôi con. Mẹ chắt ra những giọt sữa nuôi con từ những con cá, cọng rau quê nghèo. Khi con ốm đau, mẹ là người thức suốt đêm canh con ngủ.

Mắt mẹ rơm rớm khi nhìn anh Phạm Văn Ba - đứa con nuôi mẹ cưu mang khi mới biết đi lẩm chẩm. Dầu không sinh ra anh nhưng tình mẫu tử tràn ngập, chan chứa yêu thương. Mẹ thương anh Ba, bênh vực đứa trẻ mồ côi, dành cho anh chiếc áo đẹp hơn, chén cơm đầy hơn cả những đứa con ruột thịt, với ý nghĩ giản dị của một bà mẹ Nam bộ: “Bù đắp cho anh đứa nhỏ những thiệt thòi khi không có cha lẫn mẹ từ tấm bé”.

Như những bà mẹ Củ Chi đất thép thành đồng, mẹ Huỳnh Thị Xem không hề ngăn những đứa con, khi các anh bày tỏ ước nguyện đi chiến đấu. Tôi hỏi mẹ: “Phút chia tay, mẹ nói với các anh điều gì?!”. Mẹ trả lời: “Tôi nói, con ơi, làm cách mạng không dễ. Nếu con quyết chí ra đi, giải phóng hãy về. Đừng thấy người ta đi, xốc nổi đi theo, giữa chừng cực khổ, hiểm nguy không kham nổi, đào ngũ trở về là không được đâu?!”. Thằng Rong nói lời gan ruột: “Con ở lại, “Quốc gia” cũng bắt con đi quân dịch. Con đi theo Cách mạng, giữ nước giữ làng. Sống thì được trở về với mẹ, chết thì được chết vì nước!”. Nghe con nói vậy, tôi biết nói gì thêm, nuốt lại nước mắt, xếp quần áo, võng, tấm ni lông vào chiếc bòng cho nó, rồi móc túi, lấy hết tiền, chia đôi cho thằng Rong với thằng Ba, mỗi đứa một nửa!”.

Con đi, mẹ luôn dõi theo con. Lần ra đường dây giao liên, mẹ biết tin anh Rong được đưa vào đơn vị pháo binh. Mẹ vui trong lòng khi nghe đồng đội khen anh Rong bắn pháo giỏi. “Tôi không lạ chuyện đó, vì thằng Rong trước khi đi bộ đội học toán rất giỏi. Mà không vui sao được, khi một lần tìm lên đơn vị thăm nó, cậu bộ đội không biết tôi là mẹ thằng Rong, nghe pháo bắn xuýt xoa: “Đơn vị mình có thằng Rong gan lắm, bắn pháo tài lắm, giặc chạy có cờ”.

Chiến tranh ngày càng ác liệt. Sau Mậu Thân, địch huy động mọi sức mạnh chiến tranh, nhằm đẩy lùi vùng bàn đạp quân giải phóng ra xa nội đô Sài Gòn. Vùng căn cứ Củ Chi bị đánh phá nặng nề. Anh Phạm Văn Ba công tác trong một công xưởng bị bom xăng Mỹ đốt cháy. Hay tin dữ, mẹ lặn lội vào chiến khu Xa Nhỏ, Trung Hòa thăm con. Mẹ lặng người nhìn thân thể anh Ba bị biến dạng, nghe đau rát khắp cơ thể như chính mình bị đốt cháy. Mẹ khóc, xin đơn vị đưa anh Ba về chăm sóc. Anh Ba nói: “Con được cách mạng đưa đi an dưỡng, mẹ đừng lo. Lành vết thương, con sẽ tiếp tục đánh giặc”. Không phải là đứa con mẹ đứt ruột sinh ra nhưng anh Ba dành trọn tình yêu thương dành cho mẹ. Mẹ xót xa nhìn đứa con khỏe đẹp, lành lặn trước lúc lên đường đi chiến đấu giờ không còn hình hài nguyên vẹn. Anh cười tươi cho mẹ yên tâm. Thương con, mẹ không cười được, nước mắt cứ tuôn rơi…

Mẹ Huỳnh Thị Xem lau nước mắt: “Tôi đâu biết đó cũng là lần cuối cùng gặp thằng Ba. Trên đường đi an dưỡng về, thằng Ba hy sinh. Tôi không muốn tin là nó đã chết. Nhưng nó chết thiệt, chết mà không tìm được xác!”. Tiếp nối hai anh, Đặng Văn Rêu bày tỏ với mẹ nguyện vọng thoát ly vào căn cứ. Mẹ lặng đi. Nhưng rồi mẹ không thể ngăn ý chí con, dù biết rằng anh Rêu ra đi, mẹ sẽ rất khổ, rất cực. Từ ngày hai con lớn đi bộ đội, anh Rêu là trụ cột lao động chính cho gia đình, đỡ đần mẹ những chuyện nặng nhọc, phụ nuôi đàn em 6 đứa còn nhỏ dại. Nhưng quê hương bị bom đạn Mỹ cày nát, lớp lớp thanh niên tòng quân, nhập ngũ, mẹ biết mình không thể ngăn bước chân con. “Thì cũng giống như lúc thằng Rong, thằng Ba đòi đi theo cách mạng, tôi lẳng lặng sắm quần áo, võng, mua cho nó chiếc đồng hồ để khi đi đường, nó còn biết giờ, biết mẹ ở quê nhà, mong từng giờ từng khắc được gặp lại con!”.

Trong đàn con, anh Đặng Văn Rêu là đứa con trai có nhiều kỷ niệm gắn bó với mẹ. Mẹ nhớ: “Thằng Rêu sinh năm 1950, đẹp trai, tính tình gan lì, ít nói nhưng nó giàu tình cảm. Tôi rất hiểu bụng nó!”. Vì lẽ đó, năm 1967, khi nghe tin anh Rêu chiến đấu, sa vào tay giặc, bị đưa vào bót Trâm Vàng chiêu hàng, anh đã thể hiện khí phách người chiến sĩ đến hơi thở, giọt máu cuối cùng, thà chết, cương quyết không đầu hàng giặc, thì mẹ hiểu đó là lựa chọn của con. Anh Đặng Văn Rêu đã giữ đúng lời hứa với mẹ trước lúc ra đi: “Mẹ yên tâm, tuy con còn nhỏ tuổi nhưng con không xốc nổi. Đã đi theo cách mạng thì không bao giờ quay gót, phản bội”.

Anh Đặng Văn Rêu bị địch giết ở bót Trâm Vàng, khi mới 17 tuổi. Kẻ thù vùi xác anh ở một nơi nào, cho đến giờ mẹ vẫn chưa tìm được hài cốt. Nhiều năm qua, lòng mẹ vẫn đau đáu niềm mong ước đưa hài cốt đứa con trai về nghĩa trang liệt sĩ quê nhà. Nhưng mơ ước ấy, cho đến giờ, đối với mẹ đã trở nên rất xa xôi. Không tìm được hài cốt con, mẹ có niềm an ủi: “Thằng Rêu là đứa con duy nhất, khi hy sinh còn để lại cho tôi bức ảnh!”. Như nhiều bà mẹ ở Củ Chi lúc ấy, mẹ phải đối mặt với sống chết, đói nghèo; không kịp nghĩ đến chuyện chụp hình xa xỉ.

Anh Rong không hề hay mẹ luôn dõi theo bước chân anh. Đêm đêm, nằm nghe tiếng pháo, mẹ giật mình tỉnh giấc. Mẹ đốt lên ngọn đèn, ngồi thao thức, bồn chồn, lo lắng, không biết đơn vị pháo của con giờ đặt ở nơi đâu?! Mẹ xòe bàn tay nhẩm tính: “Thằng Rong đi đã được 3 năm rồi. Vậy mà chưa lần nào nó về thăm mẹ. Không biết vào pháo binh, nó lớn thêm không? Nó có gặp cô gái nào không?”. Mẹ mong mau hòa bình, thống nhất để anh con về quê cưới vợ, để mẹ có cháu ẵm bồng”. Đáp lời mẹ là tiếng bom đạn gầm rú, tiếng đại bác làm rung chuyển mặt đất. Con bận công tác, không về thăm mẹ được, thì mẹ lọ mọ, móc giao liên đi thăm con. Mẹ chắt chiu từng ngọn rau, con cá, con tôm. Có được ít đồng, mẹ dành dụm mua cho các con khi là bộ quần áo, chiếc đồng hồ, chiếc radio tặng cho con. Anh Rong cảm động nhận chiếc radio mới tinh của mẹ, vặn nghe tin tức, gương mặt sáng bừng vì mừng vui và cảm động. Anh nói với mẹ: “Mẹ đừng lo gì cho con. Khi nào thống nhất nước nhà, con sẽ về!”.

 Ngày thống nhất đất nước, mẹ lặng buồn, vì cả ba con trai mẹ không trở về. Ba năm sau ngày anh Rong ra đi, năm 1969, mẹ hay tin anh hy sinh. Lặng đi một lúc, mẹ lau nước mắt, nghẹn ngào: “Thằng Rong hy sinh ở Phú Mỹ Hưng. Mãi đến ngày hòa bình, tôi mới đưa được hài cốt con về Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Củ Chi. Hài cốt hai đứa kia thất lạc cho đến nay”. Tôi hỏi mẹ: “Các anh là trụ cột đi bộ đội hết rồi, mẹ làm gì để nuôi đàn con?”. Mẹ không trả lời ngay câu hỏi, mà kể về những ngày cùng chồng, dắt đàn con nhỏ trên chiếc xuồng mong manh, tản cư qua An Phú Đông, rồi qua Bình Phước. Vật lộn với sóng to gió lớn, sự sống gia đình mẹ sống tựa trên chiếc xuồng mong manh. Mẹ có nghề đóng đáy, lưới bắt cá kiếm sống. Vậy mà Mậu Thân năm 1968, mẹ sẵn sàng cho cách mạng mượn xuồng chở quân.

Người mẹ Củ Chi năm ấy không chỉ dâng hiến cho Tổ quốc 3 người con trai khỏe đẹp, chống chọi với bom đạn, tần tảo nuôi đàn con, mà còn dấn thân vào các cuộc đấu tranh. Ký ức những cuộc đấu tranh chính trị vẫn tươi nguyên trong lòng mẹ: “Khi đi đấu tranh, chị em cầm giỏ bàng, mía, nước dừa, chai xá xị như đi chợ. Lúc khát, tụi tôi lấy mía ăn, lấy xá xị uống. Lúc bị địch phát hiện, đàn áp; đội quân tóc dài lấy mía, chai xá xị chống lại. Chị em còn hát những bài hát đấu tranh!”.

Bà mẹ ở tuổi 84 cất giọng lanh lảnh, hát những bài ca tranh đấu năm xưa: “Dân quân miền Nam mau bồng súng ra sa trường…”. Hiển hiện trước mặt tôi là bà mẹ Củ Chi đất thép thành đồng, với cách kể chuyện dung dị, với nỗi đau khi nghe con hy sinh nuốt nước mắt vào trong…

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm