TIN TỨC

Nhà thơ Thanh Hoàng lặng lẽ chiết gieo thơ vào đất mẹ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-07 08:35:46
mail facebook google pos stwis
1393 lượt xem

KAO SƠN

Với nhiều nhà thơ, cái gốc rễ cùng mảnh đất chôn rau cắt rốn luôn là một điều hết sức thiêng liêng. Nhiều người lấy đấy làm nguồn cảm hứng cho mình khi sáng tác. Thanh Hoàng cũng thế. Mồ côi cha mẹ từ rất sớm và rồi từ rất sớm đã phải xa quê. Chính điều đó đã làm cho Thơ Thanh Hoàng luôn tồn tại một khoảng trống đến mênh mông, đến choáng ngợp và luôn có khát khao được bù đắp, được vun đầy.


Nhà thơ Thanh Hoàng và bìa tập thơ mới.

Trong tập thơ “Vẽ nhớ” (Nhà xuất bản HNV, năm 2024) của anh, ngay bài đầu tiên Thanh Hoàng đã dành những yêu thương, kính trọng nhất để nói về mẹ. Tóc tai mắt mũi miệng... này/ Mẹ cầm đời mẹ để vay đất trời... Ta nhớ đã nằm lì trong lòng mẹ ấm/ đổ thừa trâu/ quất đuôi vào bụng mẹ lúc mẹ mang bầu. Ta đón ngày bằng đôi mắt dụi cay/ theo từng luống cày úp vùi gốc rạ/ nhìn đám bù mắt bay/ đuôi trâu đánh chéo mặt đời... Anh nói về mình như vậy. Vồng khoai xưa dáng mẹ mang bầu. - Dây khoai như dây rốn... Nhau con chôn ở đầu truông nảy chồi... Anh nói về mẹ như vậy. Ngay cả khi nói về kỉ niệm của những ngày đầu non dại thì bóng dáng của đứa trẻ quê cùng người mẹ quê cũng gợi một đụng chạm làm cho câu thơ biến thành kỉ niệm không của riêng ai: Mẹ bôi mật đắng vào núm vú mình/ dấu răng con dần lặn/ miếng cơm mẹ nhai thêm nhiều phần nước mắt/ con no miệng cười... Thật khó có thể tìm thấy ở đâu những liên tưởng gần gụi nhưng lại chính xác đến thế.

Nó hợp lí trong cách nhìn, gần gũi với cảm nhận của của đứa trẻ về mẹ. Và càng khôn lớn thêm, hình ảnh về mẹ càng đậm lại: Tảo tần xuôi ngược que nan/ Mẹ gom cơ cực ngồi đan tổ mềm. Không chỉ có thế. Thời gian mẹ mòn nhanh như lưỡi cuốc/ Mẹ soi vào vết chai sần trên tay, nhổ tuổi dư trắng xóa phận mình. Con nhận ra tiếng thời gian trôi qua đời mẹ trên từng sợi tóc trắng nhọc nhằn. Con nhận ra còn những hy sinh lớn lao khác ẩn sâu. Mẹ nợ đêm, những mùa trăng mẹ buồn là một nhận biết khác về mẹ. “Tiếng gàu khua giếng khuya cạn nước”. Tiếng thở dài ướt manh chiếu mục. Đó là hình ảnh mẹ trong những đêm cô lạnh vì góa bụa. Không cần nói rõ. Chỉ hình tượng trăng và tiếng gàu khua chạm đáy giếng cạn cùng những mùa trôi mà tạo được những “thanh âm không tiếng vọng”. Câm nín, hoàn toàn giản dị, không mĩ từ nhưng lại nói được rất nhiều.

Có thể nói thơ Thanh Hoàng có những câu hay nhất đều là thơ nói về Mẹ. Một tay mẹ níu núi rừng/ Chắn ngang gió bão để đừng lạnh con/ Một tay mẹ chẻ suối sông/ Dẫn đường tôm tép vào dòng sữa thơm. Hình ảnh người mẹ hiện lên như bà Đùng, như Nữ Oa trong cổ tích, nhưng không hề là một khoa trương. Mẹ chỉ bình dị như một cây lớn, sẵn sàng chịu mọi bão giông, che chắn và đổ bóng lên đời con dành cho con sự mát mẻ và an toàn. Và rồi Đến lúc chết cũng lén con mà chết/ Mẹ làm như con tránh được đau lòng.

Giận mẹ - bài thơ độc đáo ngay ở cách dùng cả câu chữ và hình tượng. Ngay từ Giận trong tiêu đề bài thơ đã khác biệt. Có ai trưng sự giận, nhất là Giận mẹ mình ra? Sự tò mò được giải đáp ngay sau đó. Từ “Lén” rất giỏi. Một từ ấy thôi cũng đủ hình dung ra tất cả một đời người, một hành trình sống, một hoàn cảnh và hơn hết nó nói lên được một bao trùm phủ dầy của tình cảm người mẹ dành cho con. Nó trái với thông lệ, người đời thường trước lúc chia xa luôn mong muốn có được đủ đầy con cháu vây quanh. Có người mẹ vì hoàn cảnh buộc phải giấu con để đi lấy chồng (Không mưa cũng thể phập phồng/ Lừa tôi ngõ trước, mẹ vòng lối sau - Mưa - Nguyễn ngọc Ly). Có thể hiểu được. thông cảm được. Nhưng trốn con đi chết thì quá đau. Cái lí do đưa ra càng nói lên tấm lòng mẹ vì con. Mẹ muốn con tránh được nỗi đau. Là mẹ hy vọng vậy thôi. Con làm sao tránh đau cho được. Thân xác con có được chính nhờ mẹ. Mẹ đã cầm cố cả đời mẹ vay đất trời để tạo ra con. Và món nợ đó cho đến ngày mẹ về với mây trắng con vẫn không giúp mẹ trả được.

Cha mẹ quên con, lần lượt về trời/ chiếc thuyền giấy rã dần trong mưa gió. Chiếc thuyền giấy chở tuổi thơ đắm chìm luôn khi không còn cha mẹ khiến tất cả những “phải chi - giá mà - nếu được...” bỗng không còn là ước ao nữa mà biến thành một nỗi tuyệt vọng. Những câu thơ như những nhát vồ nện vào đất cằn, như dằm cứa vào tim ta vệt nắng chiều như vết roi quất vào nỗi nhớ. “Mẹ quăng con lại dọc đường/ Rồi theo chiêng trống, khói hương lên đồi/ Mẹ chơi rứa/ Ai thèm chơi? Mẹ sống cực vậy mà khi về trời chỉ nhẹ nhàng như một đùa nghịch rong chơi, như một thoảng bay của chiếc lá vàng trong chiều gió lào thổi thốc. Mấy câu thơ cuối như một ẩn ức kiểu con trẻ làm dậy lên những rưng rưng.

Gió thốc, ngày trôi... và con vẫn loay hoay không thoát ra được cái vòng lẩn quẩn của những được thua, vay trả. Con nhổ vội phận mình giâm xứ khác/ Nhánh bụi đời chen cỏ mọc từng nơi. Một cố gắng nhằm đổi thay số phận Nhưng có vẻ như cuộc “cách mạng số phận” ấy đã không thành công: Con cầm khốn khó lang thang/ Vay thương trả nhớ trăm - ngàn - được – thua/ Tiêu dần cạn hết vốn xưa/ Bao lần đáo hạn con chưa nên người. Một cái nhìn chua chát về mình trong ngáy sinh nhật. Thất bại đến như một tất yếu. như một bắt buộc của số phận. Thanh Hoàng nhận ra việc xa quê của mình như một cây non bị bứng khỏi mảnh đất quen thuộc để chen chân tìm một chỗ đứng nơi cỏ dại quê người. Câu kết Con đã gọt sượng sùng nơi góc phố/ Sao mãi còn thương cuống rốn mình đau... đã nói lên tất cả. Hầu như những gian khó nhọc nhằn của phận người, của cả một vùng đất được khắc họa chỉ bằng mấy câu thơ như vậy. Bữa chiều nhà bên thơm khói bếp/ Đêm con mơ mút lợt ngón tay mình... Thật ấn tượng. Cái hay của thơ Thanh Hoàng nằm ở đây. Cách chọn hình tượng độc đáo và khác lạ. Cái độc, lạ được tạo nên bằng những hình tượng rất đỗi giản dị, nhặt từ cuộc sống thực, ai cũng đã chứng kiến, ai cũng từng bắt gặp. Đêm con mơ mút lợt ngón tay mình... Người đọc nhìn ra cả một tuổi thơ nghèo và nhận thấy từ những hình tượng giản dị ấy những chứa đựng ẩn sâu...

con rón rén rời làng trăng xuyên vách nát/sợ khói nhang rơi làm ba mẹ giật mình/ giống như ta đợi đến khi mẹ mất/ mới biết sông đau lỗ thủng đáy thuyền...

Có lúc cơm bụi dọc đường con mượn chiếc bàn riêng/ Cắm đũa thay nhang mời cha ghé dự. Có khuya sân ga, trên chiếu thuê con rủ/ Bạn giang hồ uống rượu cúng cha, say.

Luôn trong thơ Thanh Hoàng có những hình tượng gợi sự liên tưởng khá hay. Nó hay vì những câu chữ hình ảnh ấy được đặt đúng chỗ, đắc địa chứ không phải vì sự cầu kì biến dạng câu chữ. Thơ là thế. Có cần đâu dài dòng, vân vi dãi bày nọ kia. Chỉ một vài từ, một vài hình ảnh thế thôi cũng đủ lấy đi nước mắt bao người.

Thanh Hoàng yêu hội họa. Trong thơ anh cũng vẫn là một họa sỹ. Dùng câu chữ làm cọ, kỉ niệm làm màu. Và như một họa sỹ ngồi trước khung toan trắng nhưng hẹp, anh luôn phải ý thức tiết kiệm. Tiết kiệm màu đã đành. Phải tiết kiệm cả không gian bày biện. Anh không thể vung bút theo cảm xúc mà chỉ có thể ở mỗi chủ đề, mỗi dòng nhớ chọn ra những chi tiết hình tượng ý nghĩa, đặc trưng nhất, đắt nhất. Trong ta lắng vết bùn/ Trâu lăn sình vũng cạn/ Tiếng ruồi ve mê sảng/ Bay vù trong giấc mơ. Kỉ niệm của gã trai quê cùng tuổi yêu đầu non dại được vẽ nên bằng những hình ảnh quê kiểng. Tiếng ruồi ve, đám mây tụ bởi đám bù mắt vần vũ, mùi bùn tanh cùng lằn roi đuôi trâu quất chéo mặt... tất cả lặn vào giác mơ mê sảng.

Tháng Tư miền Trung riêng một mặt trời/ Suốt hai mươi bốn giờ đứng bóng...

Tất cả những khô khát bỏng cháy đặc thù của miền trung khô cằn bởi nắng lửa được gói gọn vào hai câu thơ vừa ảo vừa thật. Nó ảo như câu thơ của Hàn Mặc Tử: “Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh...”. Và nó thật như đất cằn dưới chân. Như đá đang tự vỡ trong gió lào khô cháy. Như giọt mồ hôi người chưa kịp rơi xuống đã bốc hơi trên mặt người đen sạm. Cái bóng luôn như bị vo tròn, phải tự lẩn trốn dưới chân người. Rất riêng. Không thể trộn lẫn.

Gặp lại mình lẫn trong rêu thẵm/ Khẳng khiu cành từ vết nứt vươn ra. Không còn là bức tường vô tri vô giác nữa. Bức tường gạch đã là một kho chứa kỉ niệm, là bức tranh về nơi anh đã từng được cưu mang. Cái xóm đứng trưa mặt trời mới ló vừa là một phát hiện vừa có sự ẩn tầng trong ý nghĩa của câu chữ. Ta hình dung ra một xóm nghèo chật chội, nhà nọ đan xen nhà kia nên chỉ đứng trưa khi mặt trời ngự đỉnh đầu ánh sáng mới có thể chiếu xuống được. Nếu chỉ là để tả về cái chật chội, chen chúc thì câu thơ như vậy đã đủ được coi là hay nhờ sự tinh nhạy trong phát hiện sự việc. Nhưng câu kết Nên láng giềng biết thắp sáng cho nhau. Lại là một lí giải cho những yêu thương đầy tình nghĩa láng giềng. Và chính ở nơi tăm tối ẩm thấp này tình người lại được soi rọi rõ nhất bằng những hành động “Tự thắp sáng cho nhau”, tự sưởi ấm cho nhau. Thật dung dị nhưng là đôi cánh nâng bổng câu thơ lên và cho câu thơ một ý nghĩa vừa mang tính phát hiện vừa triết lí. Đồng thời cũng là một lí giải cho sự ích kỉ, quay lưng với nhau kiểu đèn nhà ai nấy rạng thường thấy ở những nơi dư thừa ánh sáng, dư thừa của cải vật chất, dư thừa không khí mà cái ngột ngạt, cô lạnh vẫn ngự trị?!

Và khi biên độ thơ không còn bó hẹp trong chủ đề gia đình, mở ra tới cả kiếp nhân sinh thì cũng vẫn là ý thức chọn lọc. “Tượng đài của chị” như một câu chuyện kể. Đọc một lần rồi nhắm mắt không dám đọc lại. Có gì đó thật trong sáng mà quặn thắt. Có gì đó uất nghẹn mà rồi lại đành cười. Đồng đội điểm danh, vẫn nghe tiếng đáp “có tôi” mà sờ không thấy người. Bởi sau trận đánh, người thương binh còn sống sót nhưng Chân tay lạc mất rừng sâu/ Thân còn như dấu chấm câu giữa đời. Rồi hòa bình về gặp lại người yêu xưa... Giữ lời hẹn trước, họ vẫn thành đôi lứa nhưng không thể hưởng mật ngọt của hạnh phúc. Và ƯỚC: Giá như ngày ấy giữa rừng/ Điểm tên sau trận, anh đừng “có tôi”/ Mối đùn thành nấm mồ côi/ Thì em không phải lẻ - loi - bên - chồng... Có lẽ đây là lời ước thật nhất, mà vô lí nhất, đau nhất. Nó như không còn là tiếng của người mà là tiếng của bom rơi đạn nổ và chết chóc... Bức tranh thời hậu chiến hiện lên với gam màu chủ đạo: trầm cùng những nét vẽ đứt đoạn, rời rạc như từng nhát cuốc mòn bổ vào đất sỏi làm dậy lên những âm thanh nhiều khi nghe đến quặn thắt. Và như Tiếng Lục lạc của người cha bị chất độc da cam mua về đón con vang trong sân bệnh viện Phụ sản trong truyện Nguyễn Quang Lập. Người cha không biết đứa con của mình chỉ mới là một hài nhi dị tật. Thanh Hoàng quả đã chạm đến tận cùng nỗi đau của chiến tranh. Cái chết nhiều khi không đáng sợ bằng cái sống.

Chăm anh, em bế em bồng/ Đừng em/ Anh có làm chồng được đâu... Người thương binh mất cả tay chân được vợ bồng bế lên ngực như một tượng đài: Vợ vô tư, cứ hay đùa/ Bồng anh trước ngực, đâu thua tượng đài... Không, một ngàn lần hơn những tượng đài. Đất nước có tới hàng ngàn bức tượng mẹ bồng con. Nhưng có mấy bức tượng người thiếu phụ bồng chồng? Và có lẽ chỉ những người lính khi trở về phải lê thân kiếm ăn nơi xó chợ, phải vót đũa bán giữa một cái làng thiếu ăn mới có thể đùa được như vậy!!!

Có vẻ Thanh Hoàng rất mạnh ở chủ đề này. Điều đáng chú ý, thơ của Thanh Hoàng cũng như tranh của anh luôn có một gam chủ đạo là gam trầm. Nét cọ đưa có lúc khỏe mạnh, thanh thoát nhưng cũng không ít khi dùng dằng. Cứ như ngồi chấm cọ lên toan rồi ngập ngừng di, ngập ngừng đưa đẩy không biết tới sẽ là đâu. Rồi lặng giữa cô độc để mặc cho những giọt màu tự rịn, tự chảy xuôi. Như nước mắt. Như mồ hôi. Nhưng chính có lẽ từ những chảy xuôi ấy mà bức tranh lại nói được nhiều hơn.

Bằng sự dấn thân cùng kinh nghiệm, sự từng trải, Thanh Hoàng luôn giữ cho mình sự bình tĩnh cần thiết. Anh soi vào mỗi phận người, mỗi góc đời tăm tối. Tìm lấy sự đồng cảm và sẻ chia. Không thương vay khóc mướn. Không ban phát ân tình. Anh nhập hồn vào từng số phận và trong tâm thức của một người trong cuộc anh đã tìm ra những hình ảnh, câu chữ, những chi tiết sống động đặc trưng nhất, đắt nhất. Cũng không bi lụy, không tuyệt vọng. Lấp lánh trong những trang thơ buồn của Thanh Hoàng vẫn có chỗ cho cái đẹp, cho lòng tin và tình yêu trú ngụ. Nó như một ngọn lửa trong đêm đông giá, có thể nhỏ nhoi, có thể lúc nào đó leo lắt nhưng không tắt. Đây là một phẩm chất cần thiết và rất đáng quý đối với một người cầm bút chân chính.

“Lòng như rêu bám mộ bia...” Cũng như một đời người, không ảo tưởng, không kì vọng quá nhiều. Một đời thơ cũng vậy: Cả đời người gom lửa/ Được chút khói loang chiều. Thế thôi. Và có lẽ cũng chỉ cần được như thế. Được như thế cũng là đủ. Người giúp nhau thả thơ lên trời/ Ta lặng lẽ gieo từng vần vào đất/mực chiết riêng lòng nên thơ ta khác/ chỉ tươi xanh bên chỗ đợi ta về. Có thể coi đây là quan điểm về thơ của Thanh Hoàng. Nó làm luôn một định hướng cho hành động. Bám vào đất mẹ mà làm thơ. Lặng lẽ chiết gieo từng giọt thơ vào đất mẹ. Và khi đó Thơ trở nên tươi xanh bởi ủ mầm hy vọng.

Sài Gòn, 27 tháng 7

K.S

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm