TIN TỨC

“Hoa cho tình yêu” kết quả “ngọt lành”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-31 07:39:46
mail facebook google pos stwis
933 lượt xem

TUẤN TRẦN

(Tiểu thuyết “Hoa cho tình yêu” của Nhà văn Hoàng Phương Nhâm, đôi điều tri âm)

Đâu chỉ là câu chuyện tình yêu đơn thuần. Thế nhưng khi gấp sách lại trong tôi chỉ còn “những hoa là hoa”. Hay khu vườn địa đàng đầy tình cảm hoa cỏ.  Như một huyền thoại, mà thực ra sức mạnh vô biên của tình yêu có thể vượt lên tất cả nỗi đau khổ khôn tả hay/ hoặc hóa lành những vết thương tưởng như không thể nào liền miệng. Một câu chuyện tình lãng mạn hóa, thi vị hóa, có thể là tuyệt đối hóa, còn phù hợp chăng? Trong bối cảnh xã hội “tiền trao gạo đong” thẳng thắn đến “lạnh tanh”...Rất cần chứ: chữa lành, xoa dịu, và hơn thế “tình yêu là chân ái/ lý tưởng cao nhã bậc nhất”.


Nhà văn Hoàng Phương Nhâm nhận giải Khuyến khích cho tiểu thuyết "Hoa cho tình yêu", 30/12/2024.

“Chiến tranh không phải trò đùa” và hậu chiến, dọn dẹp những tàn dư lại là một mặt trận kịch liệt hơn thế. Cuốn tiểu thuyết, trước hết giải quyết vấn đề “nhức nhối”: “hận thù” bằng “Tánh không” (quote: Phật học) theo cách “tôn vinh” tình yêu/ sức mạnh cảm hóa của tình yêu. Và chỉ có thể tình yêu mới đủ sức “ve vuốt lòng tự ái của những hờn hận ăn bắt”. Chuyện “chiến thắng” cha ông đã làm rất kì vĩ. Hai thân cây đại thụ thực dân kiểu cũ và mới đã được đốn ngã ra giữa khu vườn. Phần còn lại dọn dẹp cho sạch thơm là của “đôi trẻ/ lứa đôi” (thế hệ tương lai). Cái chúng ta cần “dọn” không hẳn là tàn tích vật thể, bởi đất nước đã khang trang. Nhưng trong sâu thẳm của người ở lại, dẫu đã nửa thiên niên vẫn còn đóng cặn nỗi hờn hận khôn nguôi.

Cuốn tiểu thuyết, như là một “mệnh lệnh” mà người viết được giao trọng trách sứ giả để gửi gắm đến người đọc: Hận thù đã đến lúc hết trách nhiệm lịch sử của nó. 50 năm, quá đủ để ta “dứt khoát”, “khẳng khái”, đường hoàng”, “minh chính” rằng: Vết thương trong ta đã hoàn toàn liền miệng. Thứ còn lại là mặt trời khoan hồng, độ lượng huy hoàng. Tự thân những linh hồn tử chiến cũng đã tìm về một nơi an trú ngọt ngào nhất, họ đều đồng ý rằng tình yêu đã chiến thắng. Đĩa nhật thực u ám của lòng oán giận và sự đeo mang kiếm tìm đám xương tàn cốt rụi không nên làm phiền nữa, tới tương lai đương phát triển và thịnh thế của dân tộc. Quần hội trên bầu trời là những anh hồn đang bừng sáng giải ngân hà, còn trong thất thổ kia đâu có gì thuộc về cõi tinh thần siêu thiêng...(Những linh hồn lính chiến đã tìm về “ngôi làng”, sau nửa thế kỉ kẹt trong oải mục với sự thấu cảm chia sẻ. Coi như đã “mồ yên mả đẹp”).

Câu chuyện mở ra trong không gian tâm thức: Vườn giác ngộ (vườn Đà La), tạo ấn tượng nội tâm đặc biệt. Như ăn bắt cảm quan thế hệ: Chi tiết Hiểu Tuệ đi vào mộng sau một vụ tai nạn và gặp gỡ “tiền nhân” cũng đồng thời là “thân nhân”, nói đúng nhất là gặp “người hiền”, “gặp phải” chân lý và cái đẹp... Ý đồ của tác giả có thể là để xây dựng nhiều chiều không gian kết nối: Thực/ mơ, quá khứ/ hiện tại, thực tế/ tâm thức, mối quan hệ huyết thống, sự vận hành của duyên nghiệp... Để làm được điều đó, ắt hẳn tác giả phải đủ “tế vi”, khéo léo, rất mực khôn ngoan để “lia ông kính” cho “thước phim” kịch trần.

Sự cài cắm, bắt nối như là tín hiệu đầu tiên cho thông điệp tình yêu lớn lao sau này. Ngay từ đầu tác phẩm: Tình nhân loại rộng sâu miên viễn đã ẩn hiện trong các tình tiết. Tình người lên ngôi, khi những thế lực từng lâm chiến lại có cuộc gặp gỡ trong “giao thức thực mơ”.  Đồng thời mở ra thời/ không nghệ thuật đậm màu “chiến tranh” và những đổ nát chiến tranh. Việc xây dựng không gian “phi trọng tính” như thế, là một điểm nhấn sáng tạo. Câu chuyện mới mở đầu mà đời sống thẩm mỹ đã thể hiện sự “hứa hẹn” những điều đáng giá.

Hơn thế nữa, không gian hư thực nhưng không mông lung. Như sự thống nhất giữa các mặt đối lập, luôn có một điểm “giao/ dung hòa” nếu như con người “nỗ lực” để được kết nối. Nhà tiểu thuyết đã bước đầu thuyết phục được người đọc, để họ mở cánh cửa vào khám phá vườn văn. Cho đến khi bước ra khỏi khu vườn nghệ thuật, người thưởng thức hiểu được điều lớn lao tất thảy: Khi đi đến tận cùng dân tộc ta sẽ tìm thấy nhân loại. Trong tình thương vô bờ bến, những hận sầu sẽ “thoái chí ngã lòng” và dần trôi vào địa mộ thời gian. Hình ảnh người lính đi tìm bạn và người bạn kia lại đã được phủ liệm bên cạnh “kẻ thù” trong tư thế nắm tay nhau. Có thể mường tượng ra giây phút họ vận sức người cố lết gần hơn để dắt nhau cùng qua đời. Lằn ranh ngăn cách tư tưởng thù nghịch, đối kháng đã bị/ được xóa nhòa. Chỉ còn lại những giấc mơ thiêng với khu vườn địa đàng cảnh đẹp như ru. Chiến tranh vốn dĩ là sự tiếp tục của chính trị bằng thủ đoạn quân sự, khi bước ra khỏi vũng lầy đen tối đó tất thảy hai phía địch- ta đều là “nạn nhân”. Cái nhìn nhân bản đó như ý muốn “cầu hòa”, ý muốn “hóa lành” mọi vết thương lòng và thôi đay đả quá khứ, hay ôm nỗi đau mất mát tang thương. Chỉ có như thế thì mới “khả dụng” trong việc xoa dịu nỗi đau, tiến về phía trước...

Sự tồn tại song song hai tuyến nhân vật người cõi sống và kẻ đã đi vào thiên cổ ở trạng thái luôn cộng hưởng đối thoại/ can dự vào chuyện hôm nay đã đạt “ý đồ” về việc sẽ tìm ra được “chân lý” thực sự. Chỉ khi ngồi lại lắng nghe nhau trong tư thái của sự “giác ngộ” mới có thể giải quyết mối hận. Vườn Đà La như là chốn để hai bên cõi sống/ chết có cơ hội thấu hiểu lòng chung.

Việc chọn lựa và xếp đặt những nhân vật theo nghề Bác sĩ đó là ẩn dụ của khát vọng chữa lành. Tất cả chúng ta đều cần được thăm khám sau cuộc giằng co thiện/ ác ở đời. Hành trình đi từ mộng qua thực là hành trình “người từ trăm năm về nơi sông rộng”. Thông điệp từ người đã nằm xuống trao cho người đang tiếp tục thực hành sự sống là hiểu và thương, là nếu được hãy dùng mọi nổ lực cho thứ tha...

Khi Hiểu Tuệ tỉnh lại, sự xuất hiện của An Đông với ánh nhìn trìu mến, có thể nói đó là “Phút giây số phận” (Andre Mauris) trong đời người. Những chi tiết nhân sinh tình yêu từ đó xảy ra: Khoảng khắc đó/ Đột nhiên/ Cỏ cây chim thú/ Đình cuộc chiến tranh đã tiếp diễn bao đời (Khoảng khắc đó – Maicơn Đâyanăng). Và câu chuyện tình yêu lứa đôi nảy sinh trên mảnh đất thù hận, trên những bề bộn “hậu chiến tinh thần”. Đòi hỏi con người phải đủ đam mê, đủ cháy bỏng, đủ ràn rực, đủ độ tha, đủ dũng cảm để vượt qua những “hòn đạn mũi tên” của hiện thực. Tình yêu đó đang đứng giữa hai làn đạn. Không thể kích động phản công, chỉ có thể lấy hoa hồng để hôn rửa hận thù.

Các trường đoạn miêu tả về thiên nhiên và con người lung linh, lấp lánh sự sống. Khi minh họa mùi vị chiến tranh và đổ nát, nhà văn cũng đã thể hiện được thực cảnh tàn tích của những khốc liệt. Khi họa bức tranh thần thức hiền thiện người đọc được dịp mộng mơ... Khung cảnh đất nước qua lăng kính nhà văn thật tuyệt đẹp. Để được độ tinh xảo trong họa cảnh cho ra dụng ý chuyển tải vẽ đẹp tình yêu, thực sự, tác giả phải có “kỉ xảo” cùng lòng ái quốc vô tận. Ống kính máy quay đi từ xa tới gần nhịp nhàng, bao quát, cho ra không gian nghệ thuật lồng lộng...

Trong cơn mộng bất thường ấy, sự tương phản của hai gam màu chiến tranh và thanh bình yên ả, cùng những nên duyên “mối quen biết” siêu thức của người hai cõi đối lập song rất đỗi hài hòa. Nó tạo nên vẻ đẹp thuần khiết và hoàn thiện, một vẻ đẹp mà, nói như một học giả, tự thân nó đã là sức mạnh: Rất thần bí.

Cuộc gặp gỡ này, mối lương duyên nặng nghĩa này, tình cảm mãnh liệt lứa đôi này rất đặc biệt vì bối cảnh hạnh ngộ là vừa bước ra từ chiến tranh. Và thực sự, chỉ bước được qua chiến tranh khi ta gấp trang sách lại. Bởi vì, 50 năm qua khi lòng còn hận sầu thì không thể nào ta nói rằng chiến tranh đã rồi, mọi sự đã xong, vẫn còn đó cuộc chiến làm đau cõi lòng...Nếu là tình lính và văn công trên đường chiến trận, hay tình yêu dưới trời thanh bình nó lại khác. Còn ở đây, thời điểm mới chớm “tự giác giác tha”. Con người phải đứng trước nhiều vấn đề “nhức nhối” cần giải quyết. Trong đó có việc phải tìm cách hàn gắn những vết đau của mất mát, tang tóc. Hòa bình thành thực nhất khi cõi tinh thần biết nâng niu, thưởng thức tình yêu và vấn đề của “chiều sâu bi kịch”, không còn kết khối mà ăn nhấm gặm thân người. Tình yêu của họ không chỉ là cho nhau mà lớn lao hơn và tất cả, không sao với tới là sứ mệnh phải giúp cho nguôi tan sự xót xa trong lòng người ở lại.

Hành trình thiêng liêng cao cả ở đời cũng có thể nói là hành trình của tình yêu. Hay quy luật của cuộc sống là quy luật của tình yêu. Chính sự “bền bỉ”, “kiên trinh” “quyết liệt” đến cùng của đôi trẻ để tình lên ngôi, cho đời đẹp hơn chút đỉnh đã giúp cho người mẹ tha thứ cho chính mình, buông bỏ mối hằn học trong cõi lòng và đặt tay đôi trẻ lên nhau để trọn vẹn những yêu thương thường hằng. Chi tiết gặp gỡ, đính ước, hẹn thề, rồi những thất vọng tràn trề, trốn chạy và tìm nhau được xây dựng rất “trữ tình”. Tác giả được dịp trải ra trong ngôn ngữ cảnh đẹp thiên nhiên đất nước, quá đỗi hoành vĩ, tráng lệ...

Con gái của một nhà Triết thuyết vô sản từng hỏi ông ấy rằng: Hạnh phúc là gì hả ba? Mác đã trả lời con gái: “Hạnh phúc là đấu tranh”. Có thể nói rằng, hành trình đi tìm hạnh phúc cũng đấu tranh kịch liệt với nhiều thăng giáng, lật trở, ưu tư. Để tới được bến bờ họ đã “ngậm ngùi”, đã có những giằng xé để tìm ra cái chân ngã lương thiện thứ tha: “Hạnh phúc thực hơn mọi điều đã tả - Lại ngọt ngào kì lạ, lớn lao hơn” (Bằng Việt)? Đã có một hành trình như thế, một hành trình cảm hóa hận thù trong bình yên và yêu thương, trong an trú và trọn vẹn nơi hiện tại, trong đồng vọng tiếng hình dân tộc. Vẻ đẹp tình lứa đôi ấy đã thực sự cất cánh.

Vậy là tác phẩm lại ra đời vào quãng thời gian nhìn/ nhận lại nhiều điều, cần soi sáng cho ra chân tướng sự thật. Hiện thực hiện hình tha hóa trên khung trục tình- tiền- quyền. Đời sống đang độ căng/ bức bối. Tác giả đã đi quá xa trong sự thi vị hoá ư? Vâng, có thể. Nhưng có phải thế này chăng, chẳng chân lý nào vĩnh hằng hơn tình yêu chân chính. Cái đẹp có thể tuyệt đối hóa được vẽ ra trong tác phẩm, phải nói là, rất cần chứ, trong “cơn sốt vỡ da” khi nhiều trò xảo trá vô luân đòi đứng lên “hoán đảo” vị trí của niềm tin, khát vọng và tình yêu đôi lứa. “Hoa cho tình yêu” như tiếng lặng trên nền thời gian vồn vã, đủ đầy cho những nỗ lực hàn gắn những vết thương đời. “Hoa cho tình yêu” thúc dục sống, yêu, hiểu, làm việc và khi cần được hi sinh cho tình yêu...

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm