TIN TỨC

Hoa thơm, trái ngọt của lòng yêu thương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-08-20 15:46:55
mail facebook google pos stwis
785 lượt xem

HOÀNG THÔNG ĐẠT
(Đọc tập thơ “Từ vườn hoa nhà em” của Trần Hà Yên)


Nhà thơ Trần Hà Yên và bìa tập thơ mới.

Sau “Bác sĩ chim sâu”, xuất bản đầu năm 2024, nhà thơ Trần Hà Yên, Hội viên Hội Nhà văn TP HCM, vào giữa tháng 4-2024 lại ra mắt bạn đọc tập thơ thiếu nhi “Từ vườn hoa nhà em”, NXB Văn học, nối tiếp mạch nguồn trong trẻo, thế giới hồn nhiên của trẻ thơ trong từng câu chữ thân thuộc, gần gũi với các em.

Là tác phẩm thứ 8 của Trần Hà Yên, “Từ vườn hoa nhà em”, như tên gọi, vừa khiêm tốn giới thiệu về góc vườn nhà vừa pha chút tự hào dù không có kỳ hoa dị thảo nhưng không thiếu sắc màu và sự phong phú của cảnh vật, của cuộc sống hôm nay, qua góc nhìn trẻ thơ, nhìn từ khoảng sân, vườn hoa ra thế giới bên ngoài. Hoa nhiều loại, khoe sắc, đưa hương, hoa mạnh mẽ vươn lên, hoa đúng giờ nhắc nhớ, hoa xinh tươi khiến bướm vàng ngơ ngác. Và nhân vật chính bước ra, một ngày chủ nhật, chú bé chăm chỉ tập thể dục, tập bơi cùng bố mẹ với tâm niệm:

Bao khó khăn phía trước/ còn chờ bước em qua/ cần chăm chỉ luyện tập/ đủ sức vượt đường xa” (Chủ nhật của em)

Một câu chuyện cũng bắt đầu, từ góc vườn, với chú ếch xanh. Tâm tình với các em, nhà thơ dùng câu chuyện để bày tỏ thông điệp mới, tư duy mới. Xưa nay người đời thường nói “ếch ngồi đáy giếng”, nay chú ếch làm cuộc phiêu lưu để nhận diện thêm thế giới bên ngoài “cứ ngồi hoài đáy giếng/ sẽ biết được bao nhiêu”. Bằng tư duy đó, hành động đó đem lại nhận thức mới và đúng hơn, khác trước một trời một vực:

Kìa bầu trời rộng lớn/ mây ở tít trên cao/ thế sao ông lại bảo/ bằng cái đĩa nhà tao

Ếch say sưa tìm hiểu thế giới lạ lẫm song vẫn rất ngoan, trở về khi nghe mẹ gọi:

“Nhà xây bằng gì thế/ mà cao khiếp thế này/ đường đi đâu dài thế/ mà xe chạy đêm ngày/ ộp ộp tiếng mẹ gọi/ ếch xanh phải về đây” (Chú ếch xanh)

Với bài thơ “Bác gấu đen và hai chú thỏ” là một bài học luân lý nhẹ nhàng. Hai chú thỏ mải chơi, làm gãy những chồi non, bác gấu nhắc nhở nhẹ nhàng và cùng đi thăm thỏ xám đang bệnh:

“Sao hai cháu chẳng màng/ đến nỗi đau người khác/ hãy đi cùng với bác/ thăm thỏ xám ốm rồi

Khi bão về, thấy ông bà lo lắng, em nhỏ cũng hiểu dần về đất nước, nhất là những vùng quê ở miền Bắc, miền Trung, nơi các em cũng có những người thân đang sống, phải hứng chịu thiệt hại do bão lũ hoành hành. Câu thơ như chùng xuống cùng nỗi lo âu tăng lên theo sự dữ dội của mưa bão:

“Mưa trắng cả bầu trời/ thế rồi gió ào ạt/ mưa bão quật tơi bời/ những ngôi nhà tốc mái/ mưa như trút nước vào/ kìa quyển sách tập đọc/ ướt nhoè, thương làm sao” (Bão về)

Dạy cho các em về lòng nhân ái, về tình Tổ quốc, nghĩa đồng bào qua những câu thơ như thế này dễ thấm, nằm sâu trong tiềm thức và thôi thúc hành động tương thân tương ái khi các em lớn lên, đủ sức làm những việc thiện giúp ích cho đời. Các em cũng yêu đất nước hơn qua tình yêu quê hương, dòng họ. Về với quê nội, bé yêu thiên nhiên tươi đẹp, từ khu vườn xanh cây trái đến ruộng đồng thẳng cánh cò bay. Bé nói trong hồn nhiên về tình yêu quê nội: “Ba mẹ về đi làm nhé/ bé thương nội…, hổng về đâu”…

Về với miền quê, bé có thêm nhiều kiến thức, hiểu rõ hơn về bốn mùa qua cảnh vật quanh mình biến chuyển, tấm lòng thêm hồn hậu để yêu quê hương, để học làm người:

Mùa xuân cõng bao nắng ấm/ về cho đồng lúa thêm xanh/…mùa hè về theo cơn gió/ nồng oi cây đứng bên đường/… tùng tùng trống trường đã điểm/ bé vui, bè bạn gặp nhau/ thế rồi mùa đông rét mướt/ gió mưa giọt ngắn giọt dài/ hàng cây rung mình run rẩy/ mong mùa xuân ấm về đây” (Bốn mùa của bé)

Xuất thân là cô giáo nhiều năm đứng trên bục giảng, là người mẹ, người bà, Trần Hà Yên hiểu rõ tâm lý trẻ em, thơ của chị cũng nhẹ nhàng mà lắng sâu những bài học chị đem đến cho bạn đọc nhỏ tuổi. Như con suối trong, chảy róc rách, thấm sâu từng ngày vào tâm hồn trẻ thơ. Chẳng hạn bài thơ “Cáo và gà trống”, ngỡ là chuyện ngụ ngôn như từng nghe từng đọc, song lại mang màu sắc khác, thể hiện sự mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của gia đình Gà, đoàn kết đồng lòng đối phó với Cáo già:

Gà mái bảo đàn con/ núp dưới bụng của mẹ/ gà trống núp một bên/ cặp chân đầy móng nhọn/ chờ cáo vào vung lên/ cáo chờ đến gần sáng/ chẳng làm được gì thêm/ phải về khi bụng đói/ tiếc rình cả một đêm

Bài thơ dựng một hoạt cảnh đầy khí chất kiên cường, sức mạnh của sự đồng lòng, làm nức lòng bạn đọc nhỏ tuổi, hiểu thêm về tình yêu gia đình, đoàn kết yêu thương.

Thế giới của các em luôn đáng yêu, nhất là qua cử chỉ, hành vi của các em, qua cách các em diễn đạt ngôn từ, qua tư duy và lăng kính của trẻ thơ. Hai anh em ham chơi, làm vỡ chiếc bình pha lê, đến chiều về Tí trả lời bố rất hồn nhiên:

Chiều về thấy vậy bố hỏi/ sao bình bị vỡ thế này/ anh Hai ngập ngừng nhìn bố/ Tí thưa: Tại nó bị say” (Chiếc bình bị vỡ)

Không phải người say mà là chiếc bình bị say, bình bị say nên vỡ là đúng rồi. Không thể không bật cười với hai anh em Tí và cũng dễ say những câu chuyện của tuổi thần tiên trong tập thơ này. Hãy đọc về cách nghĩ của Tũn, chàng thợ xây nhỏ tuổi: Bố mẹ đã có nhà, chỉ còn Vàng là không có nhà, đêm thâu nằm suốt bậc thềm, cửa ngõ. Thế là lọ mọ xây nhà cho Vàng, song Tũn quên mất một điều:

Nhưng mà Tũn quên mất/ Vàng có cần nhà đâu/ vào ra canh giữ cửa/ cho mọi người ngủ sâu” (Tũn làm thợ xây)

Cách nghĩ về người khác, biết cho đi, đó mới là những giá trị sống các em cần được truyền dạy, thực hành. Bên cạnh đó là tình yêu thương. Hãy bắt đầu từ những nơi chốn, môi trường gần gũi, từ nhà ra cánh đồng, từ miền quê lên thành phố, lớn dần bằng tình yêu quê hương, đất nước.

Sáo diều đùa vui với gió/ bà em ngồi mát thảnh thơi/ xa xa ngoài đồng mẹ cấy/ thương cha đầu ghềnh cuối bãi/ chiều hè đồng quê thương mến/ cho em ngày tháng ngọt lành” (Chiều quê hương)

Mùa xuân, đến với chợ hoa “mẹ mua cành đào nhỏ/ dẫn mùa xuân về nhà”, rõ ràng bé đã lớn dần lên, thấu hiểu mùa xuân sau những nhọc nhằn ngày tháng hy sinh của các đấng sinh thành, mùa xuân theo về là hạnh phúc đơn sơ mà quý giá vô ngần. Bé lớn dần lên, biết làm những điều hay lẽ phải nhiều hơn:

Kìa một cô gái nhỏ/ đang đi bộ tung tăng/ vội chạy đến giúp cụ/ không qua khi đèn xanh/ chờ đèn đỏ xuất hiện/ mọi người đứng lại rồi/ trên vạch đường đi bộ/ mình sẽ qua cụ ơi” (Cô gái nhỏ)

Và nơi chốn yêu thương nhất là gia đình, nơi chắp cánh tâm hồn, giũa rèn nhân cách, các em được tỏ bày tình yêu với mẹ:

Những nốt nhạc đầu Nghé tập/ là bài hát Mẹ yêu ơi/ cây đàn như cùng thổn thức/ lời con yêu mẹ nhất đời” (Học nhạc)

Với bố, như khi bố phải nằm viện:

Vắt nước cam cho bố/ thêm vào một ít đường/ em mong bố khỏe lại/ để một nhà bên nhau” (Khi bố bị ốm)

Đức hy sinh của đấng sinh thành được đúc kết qua bài thơ “Ong thợ”, một bài thơ hay, xúc động. Ngày đêm làm quần quật, ong thợ chẳng được chơi, từ đó liên tưởng nâng cao bằng hình tượng người mẹ:

Em thương cô ong thợ/ vất vả như mẹ em/ đôi bàn tay chai sạn/ áo đẫm giọt mồ hôi/ vẫn cần cù chăm chỉ/ một đời cho con thôi

Với tập thơ này, Trần Hà Yên đã chứng tỏ bút lực vững vàng, đem đến cho bạn đọc nhỏ tuổi nhiều cảm xúc thẩm mỹ và những bài học nhân sinh. Từ vườn hoa nhà em đến cuộc sống bên ngoài, thế giới trẻ thơ vẫn lung linh sắc màu cho dù thế giới người lớn phức tạp hơn. Song qua những bài thơ, tất cả như được hóa giải, không còn khoảng cách, tất cả đều trở nên dễ hiểu, bởi gắn kết bởi tấm lòng nhân hậu, sự yêu thương và những tình cảm chân thành giữa con người với con người, với thế giới quanh ta. Gấp sách lại vẫn còn những dư ba tiếng trẻ cười giòn, những đôi mắt đen tròn lấp lánh…

Bài đăng Thời báo Văn học - Nghệ thuật số ra ngày 15/8/2024

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm