TIN TỨC

Khúc biến tấu “Mặt nạ hương”

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-05-01 12:56:46
mail facebook google pos stwis
868 lượt xem

Đọc thơ, như là phép hóa thân, tan chảy cảm xúc của mình cùng cảm xúc bài thơ. Người đọc lắng lòng theo con chữ, hòa điệu với nhịp điệu của ngôn từ. Tôi may mắn tìm thấy sự đồng điệu đầy hứng thú khi đọc thơ Nguyễn Thánh Ngã.

Hơn thế nữa, Ngã dắt ta vào thế giới của sự bay bổng, thực mà ảo tan quyện nhau. Chỉ có ngôn ngữ của thơ mới có quyền năng và phép mầu làm cho chất thơ lung linh biến ảo lạ thường. Bằng lối viết đầy cảm xúc trong trẻo, với cách “nhấn nhá” khá chắc tay, hồn thơ tung tẩy mà vẫn đọng lại dư ba ngọt ngào, nồng chất thơ và nhạc. Thơ hiện đại đa phần thiếu chất thơ vốn có của thơ. Các nhà thơ dường như mê mãi với sở trường của riêng mình, đôi khi không cần biết đến chất thơ đã bị bào mòn âm thầm. Phải chăng chất liệu của đời sống không còn thơ?

Riêng với nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã, dù viết đề tài nào, Ngã luôn dành phần cho chất thơ sâu lắng…trên cái nền hiện thực có lúc lắm xù xì, gai góc. Nhà thơ có tài là kẻ biết thổi hồn cho con chữ thoát xác bay lên. Đó là dụng công, bản lĩnh làm nên bản sắc của nhà thơ. Chất thơ còn lại của bài thơ là chất xúc tác cho âm nhạc, như một cặp song sinh…

Ngã vừa tung bài lên “fecabook” hôm trước, hôm sau đã có nhạc sĩ phổ thành bài hát… “Mùa hoang/Giọt nước đi hoang/Mồ côi tạt vào khung cửa/Ve sôi, phượng xòe ngón lửa/Mây ơi /Mây vội vàng chi… Tháng tư hoa kèn đã nở/Áo em trinh nguyên ngày nọ/Mưa ơi, có còn long lanh/Dòng sông có còn trong xanh/Đò xưa, con đường bến chợ/Chỉ còn em, và nỗi nhớ… Mây ơi/Mây vội vàng chi…”(Vội vàng mùa hạ)

Một nỗi gì xa vắng, một chút gì mong manh tìm về như “đòi nợ” nhà thơ, quá khứ đi qua còn đọng lại. Cảm giác đó làm sao diễn đạt cho thật nồng nàn sâu lắng? Khi sự đồng điệu tìm thấy nhau, nhạc sĩ đã chấp cánh cho bài thơ “Vội vàng mùa hạ” thành bài hát. Bằng những quãng âm cao vút như khoét vào hồn ta nỗi thảng thốt về không gian, thời gian , kiếp người thăm thẳm… không thể diễn tả hết bằng lời, chỉ có âm thanh cộng hưởng làm cho giai điệu bài hát càng cuốn hút, mê hoặc…với điệp khúc “mây ơi, mây vội vàng chi” như câu hỏi tưởng vu vơ lại đầy ám ảnh!

Từ một điểm nhìn còn mơ hồ, bằng sự nhạy cảm riêng, Ngã đã “kiến trúc” cho đường nét ngôi nhà thơ thành hình, định dạng. Từ những “miền hoang” xa khuất trong đường biên của trí tưởng đến muôn mặt đời thường. Ý thơ được khái quát, lạ hóa một cách nhẹ nhàng, tránh sự tẻ nhạt theo lối biên chép kể lể… Nếu bài thơ không có “năng lượng”, bạn đọc dễ bị chán; như trong cuộc chạy đua không được tiếp sức; nó không có khả năng giữ bạn ngồi lâu, dù bàn tiệc ngôn ngữ dọn ra lắm sắc màu. Bài thơ khả dĩ làm ta ám ảnh bởi một nửa chưa định dạng; một nửa còn phôi thai, vừa dư ba vừa dư hương…

Trong thơ, ngôn ngữ luôn có tính biểu tượng hai mặt. Nhà thơ dụng công cài đặt đa tầng đa nghĩa. Và với trường liên tưởng rộng, bài thơ có nhiều đáp án… Đây là thơ có khả năng “hầu chuyện” bạn đọc lâu dài. Ngược lại là thơ nông; đọc xong là xong!

“Mặt nạ hương” là tập thơ thứ 8 trong gia tài thơ của nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã. Chính sự sáng tác đều tay cũng góp phần làm nên “thương hiệu” nhà thơ. Trời cho Ngã tâm hồn thi sĩ đích thực, thơ theo từng bước đường, Ngã chưa lúc nào bỏ cuộc trên hành trình tìm kiếm chính mình, tìm về chính mình, bằng ngôn ngữ hiện đại, luôn tìm cách bứt phá đến với cái mới lạ trong cách nhìn, cách thể hiện.

Chưa có nhà thơ nào tỏ lộ về cách viết của mình trong cách thể hiện hình thức bài thơ, ví dụ như : Khi chữ đầu dòng không viết hoa; phải chăng ngầm thông diễn những chi tiết còn tiếp tục khai mở; làm cho ta có cảm giác ý thơ còn vương vấn đâu đó chưa thể nói hết?…

Câu thơ không dàn ngang mà xuống dòng như nét chấm phá đột biến. Ở đó chữ như bơi, như lặn, như mọc, lúc sáng, lúc tối, khi là đường , khi là nhà, khi tròn khi khuyết…

mặt em

mọc từ vầng trăng mẹ

tròn khuyết thâu canh

đôi mắt em bơi

đôi môi em lặn

vào thính giác cô đơn

mẹ khâu giấc mơ mặt nạ

đắp khuôn trăng

rong ruổi khắp bầu trời tối sẩm

ánh sáng em là đường

nỗi nhớ em là nhà

nhưng trái tim em là hương

lan tỏa một tình yêu lặng lẽ…

(Mặt nạ hương)

Mỗi loài hoa luôn mang một sắc thái biểu cảm khác nhau. Sắc là của hoa; màu là  góc nhìn mỗi người phối trộn riêng nên phải chăng vô tình hoa mang “mặt nạ” khác nhau? Theo cách diễn tả riêng của mỗi người?

Hương là nguyên bản thẳm sâu, bởi hương không tạo dáng mà thắm đẩm cốt cách dâng hiến thiêng liêng. Khúc biến tấu giữa hoa – hương luôn kỳ thú và huyền ảo! Bãng lãng trong không gian một làn hương, một tình yêu lặng lẽ. Lặng lẽ bởi hương vốn không ồn ào, ta nhận ra hay không nhận ra, hương cũng âm thầm tự tan mất. Mặt nạ có nhiều(…), hương chỉ là hương? Đó là giá trị đích thực của hương! Hay cũng chính là giá trị tiềm ẩn của tâm hồn? Bởi con người được ví như “hoa của đất”. Đó là ẩn dụ sâu xa,ý vị của bài thơ.

 Nếu sự cảm của người đọc trùng khít với ý của nhà thơ, đó là sự đồng điệu thâm sâu. Nếu không, có khi lại mở ra tầng liên tưởng khác, không kém phần thú vị dành cho người đọc được quyền khám phá, nhằm mang lại khoái cảm thẫm mỹ riêng. Thơ luôn khát khao tìm kiếm không gian mới. Mỗi bài thơ là một thể nghiệm đầy ám ảnh… để chạm vào “những quặng nghĩa nằm trong lòng chữ”; “quặng nghĩa sẽ dâng cho đời tầng vỉa hương thơm”.

Nhưng lạ thay! trong niềm vui sáng tạo, sau khi đã leo lên tận đỉnh; thơ quay về hòa nhịp với tiết tấu dưới chân mình. Sau khi hành hương xuyên cõi mộng; thơ mới ngộ ra “thi tánh” lòng mình. Sau khi bung tỏa cảm xúc; thơ lại thích lắng yên trong ngôi nhà minh triết để “thu hoạch” những “giấc mơ”… “Giấc mơ của người gieo trồng là mùa thu hoạch/Giấc mơ của ngôn từ là ý nghĩa của đau thương/Núi đau thương sẽ hút những gì quăng ra khỏi nó/Nếu không ra ngoài quỹ đạo của Tình yêu” (Từ trường chữ)

Điều đáng quý còn lại của thơ Ngã là chất thơ còn đọng lại cho mỗi câu thơ, ý thơ… như món quà tặng bạn đọc. Ngã không làm người đọc thất vọng khi kết thúc bài thơ của mình; luôn gởi gắm một điều gì đó như lời bộc bạch thân tình “Nhờ tưởng tượng thơ luôn bắt đầu mà không có kết thúc…” ; “người thở /hay hơi thở/mà tiếng thở dài/cột vòng quanh trái đất…”

“Ngạc nhiên”  Ngã âm thầm phát hiện ra vấn đề khi một lần vô tình chạm trán với cánh cửa kính trong suốt.Ta có lần cũng bất ngờ như thế trong đời, rồi xuýt xoa bỏ đi. Riêng Ngã có bài thơ để lại, còn tinh ý nhận ra một vật cản đáng sợ hơn: đó chính là cái vô hình không thể gọi tên, quy kết… “bước vào quán cà phê/trán tôi đập vào cửa kính trong suốt/ngạc nhiên!/và ngạc nhiên khiến tôi chợt hiểu/có những vật cản nhìn thấy/có những vật cản không nhìn thấy trong đời…”(Ngạc nhiên)

Có lần cùng trò chuyện về thơ, tôi nói lời nhận xét chủ quan: “Thơ bây giờ dường như đã mất giá”. Ngã không ngần ngại đáp lời tôi như một phản đề: “Thơ vô giá chứ ”! Bởi xét cho cùng, giá trị vĩnh cửu của thơ ca biết lấy gì cân, đong, đo, đếm để so sánh? khi thơ cũng là thú chơi tao nhã sang trọng, trí tuệ, rất riêng; vậy thì tất cả đều bình đẳng trong cuộc chơi này. Ngã không bao giờ tuyên ngôn, lập thuyết cho thơ phải thế này, thế nọ. Ngã tuyên ngôn bằng chính bài thơ của mình. Đó là cách định nghĩa về thơ hay nhất, thuyết phục nhất. Người làm thơ, hầu như ai cũng có thể đúc kết kinh nghiệm về tiêu chuẩn bài thơ hay. Nhưng làm được bài thơ hay lại là chuyện khác.

 Bài “Lời tụng ca vết thương” đã vỡ lẽ điều ấy:

“sợi chỉ đã chịu đóng đinh vào da thịt con người/ngậm nỗi đau mà không oán trách/bị vất vào sọt rác mà không oán trách/sự thầm lặng của chữ cũng vậy/nghĩa chữ xuyên thời gian/xác chữ còn nằm trong hố thẳm ngôn từ/có khi cũng là sợi chỉ mong manh”. Vâng! Sợi chỉ mong manh có thể cứu được mạng người, khi nó biết khâu lành vết thương “cho niềm tin kéo da non”. Không ngoài nghĩa ấy, “nghĩa chữ” xuyên thời gian, có khả năng xoa dịu tâm hồn.  Như con tàu khát vọng vượt mọi cách ngăn “kết nối đôi bờ da thịt”; như một nghi lễ, cho thơ tụng ca vết thương!

Cảm ơn đời với những cơn đau cho thơ phát lộ; là đường băng cho thơ cất cánh. Nỗi đau là nhân, thơ là quả! Chính lúc này ta mới hiểu vì đâu “Thơ vô giá”!

Vũ Tuấn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm