TIN TỨC

Khúc biến tấu “Mặt nạ hương”

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
187 lượt xem

Đọc thơ, như là phép hóa thân, tan chảy cảm xúc của mình cùng cảm xúc bài thơ. Người đọc lắng lòng theo con chữ, hòa điệu với nhịp điệu của ngôn từ. Tôi may mắn tìm thấy sự đồng điệu đầy hứng thú khi đọc thơ Nguyễn Thánh Ngã.

Hơn thế nữa, Ngã dắt ta vào thế giới của sự bay bổng, thực mà ảo tan quyện nhau. Chỉ có ngôn ngữ của thơ mới có quyền năng và phép mầu làm cho chất thơ lung linh biến ảo lạ thường. Bằng lối viết đầy cảm xúc trong trẻo, với cách “nhấn nhá” khá chắc tay, hồn thơ tung tẩy mà vẫn đọng lại dư ba ngọt ngào, nồng chất thơ và nhạc. Thơ hiện đại đa phần thiếu chất thơ vốn có của thơ. Các nhà thơ dường như mê mãi với sở trường của riêng mình, đôi khi không cần biết đến chất thơ đã bị bào mòn âm thầm. Phải chăng chất liệu của đời sống không còn thơ?

Riêng với nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã, dù viết đề tài nào, Ngã luôn dành phần cho chất thơ sâu lắng…trên cái nền hiện thực có lúc lắm xù xì, gai góc. Nhà thơ có tài là kẻ biết thổi hồn cho con chữ thoát xác bay lên. Đó là dụng công, bản lĩnh làm nên bản sắc của nhà thơ. Chất thơ còn lại của bài thơ là chất xúc tác cho âm nhạc, như một cặp song sinh…

Ngã vừa tung bài lên “fecabook” hôm trước, hôm sau đã có nhạc sĩ phổ thành bài hát… “Mùa hoang/Giọt nước đi hoang/Mồ côi tạt vào khung cửa/Ve sôi, phượng xòe ngón lửa/Mây ơi /Mây vội vàng chi… Tháng tư hoa kèn đã nở/Áo em trinh nguyên ngày nọ/Mưa ơi, có còn long lanh/Dòng sông có còn trong xanh/Đò xưa, con đường bến chợ/Chỉ còn em, và nỗi nhớ… Mây ơi/Mây vội vàng chi…”(Vội vàng mùa hạ)

Một nỗi gì xa vắng, một chút gì mong manh tìm về như “đòi nợ” nhà thơ, quá khứ đi qua còn đọng lại. Cảm giác đó làm sao diễn đạt cho thật nồng nàn sâu lắng? Khi sự đồng điệu tìm thấy nhau, nhạc sĩ đã chấp cánh cho bài thơ “Vội vàng mùa hạ” thành bài hát. Bằng những quãng âm cao vút như khoét vào hồn ta nỗi thảng thốt về không gian, thời gian , kiếp người thăm thẳm… không thể diễn tả hết bằng lời, chỉ có âm thanh cộng hưởng làm cho giai điệu bài hát càng cuốn hút, mê hoặc…với điệp khúc “mây ơi, mây vội vàng chi” như câu hỏi tưởng vu vơ lại đầy ám ảnh!

Từ một điểm nhìn còn mơ hồ, bằng sự nhạy cảm riêng, Ngã đã “kiến trúc” cho đường nét ngôi nhà thơ thành hình, định dạng. Từ những “miền hoang” xa khuất trong đường biên của trí tưởng đến muôn mặt đời thường. Ý thơ được khái quát, lạ hóa một cách nhẹ nhàng, tránh sự tẻ nhạt theo lối biên chép kể lể… Nếu bài thơ không có “năng lượng”, bạn đọc dễ bị chán; như trong cuộc chạy đua không được tiếp sức; nó không có khả năng giữ bạn ngồi lâu, dù bàn tiệc ngôn ngữ dọn ra lắm sắc màu. Bài thơ khả dĩ làm ta ám ảnh bởi một nửa chưa định dạng; một nửa còn phôi thai, vừa dư ba vừa dư hương…

Trong thơ, ngôn ngữ luôn có tính biểu tượng hai mặt. Nhà thơ dụng công cài đặt đa tầng đa nghĩa. Và với trường liên tưởng rộng, bài thơ có nhiều đáp án… Đây là thơ có khả năng “hầu chuyện” bạn đọc lâu dài. Ngược lại là thơ nông; đọc xong là xong!

“Mặt nạ hương” là tập thơ thứ 8 trong gia tài thơ của nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã. Chính sự sáng tác đều tay cũng góp phần làm nên “thương hiệu” nhà thơ. Trời cho Ngã tâm hồn thi sĩ đích thực, thơ theo từng bước đường, Ngã chưa lúc nào bỏ cuộc trên hành trình tìm kiếm chính mình, tìm về chính mình, bằng ngôn ngữ hiện đại, luôn tìm cách bứt phá đến với cái mới lạ trong cách nhìn, cách thể hiện.

Chưa có nhà thơ nào tỏ lộ về cách viết của mình trong cách thể hiện hình thức bài thơ, ví dụ như : Khi chữ đầu dòng không viết hoa; phải chăng ngầm thông diễn những chi tiết còn tiếp tục khai mở; làm cho ta có cảm giác ý thơ còn vương vấn đâu đó chưa thể nói hết?…

Câu thơ không dàn ngang mà xuống dòng như nét chấm phá đột biến. Ở đó chữ như bơi, như lặn, như mọc, lúc sáng, lúc tối, khi là đường , khi là nhà, khi tròn khi khuyết…

mặt em

mọc từ vầng trăng mẹ

tròn khuyết thâu canh

đôi mắt em bơi

đôi môi em lặn

vào thính giác cô đơn

mẹ khâu giấc mơ mặt nạ

đắp khuôn trăng

rong ruổi khắp bầu trời tối sẩm

ánh sáng em là đường

nỗi nhớ em là nhà

nhưng trái tim em là hương

lan tỏa một tình yêu lặng lẽ…

(Mặt nạ hương)

Mỗi loài hoa luôn mang một sắc thái biểu cảm khác nhau. Sắc là của hoa; màu là  góc nhìn mỗi người phối trộn riêng nên phải chăng vô tình hoa mang “mặt nạ” khác nhau? Theo cách diễn tả riêng của mỗi người?

Hương là nguyên bản thẳm sâu, bởi hương không tạo dáng mà thắm đẩm cốt cách dâng hiến thiêng liêng. Khúc biến tấu giữa hoa – hương luôn kỳ thú và huyền ảo! Bãng lãng trong không gian một làn hương, một tình yêu lặng lẽ. Lặng lẽ bởi hương vốn không ồn ào, ta nhận ra hay không nhận ra, hương cũng âm thầm tự tan mất. Mặt nạ có nhiều(…), hương chỉ là hương? Đó là giá trị đích thực của hương! Hay cũng chính là giá trị tiềm ẩn của tâm hồn? Bởi con người được ví như “hoa của đất”. Đó là ẩn dụ sâu xa,ý vị của bài thơ.

 Nếu sự cảm của người đọc trùng khít với ý của nhà thơ, đó là sự đồng điệu thâm sâu. Nếu không, có khi lại mở ra tầng liên tưởng khác, không kém phần thú vị dành cho người đọc được quyền khám phá, nhằm mang lại khoái cảm thẫm mỹ riêng. Thơ luôn khát khao tìm kiếm không gian mới. Mỗi bài thơ là một thể nghiệm đầy ám ảnh… để chạm vào “những quặng nghĩa nằm trong lòng chữ”; “quặng nghĩa sẽ dâng cho đời tầng vỉa hương thơm”.

Nhưng lạ thay! trong niềm vui sáng tạo, sau khi đã leo lên tận đỉnh; thơ quay về hòa nhịp với tiết tấu dưới chân mình. Sau khi hành hương xuyên cõi mộng; thơ mới ngộ ra “thi tánh” lòng mình. Sau khi bung tỏa cảm xúc; thơ lại thích lắng yên trong ngôi nhà minh triết để “thu hoạch” những “giấc mơ”… “Giấc mơ của người gieo trồng là mùa thu hoạch/Giấc mơ của ngôn từ là ý nghĩa của đau thương/Núi đau thương sẽ hút những gì quăng ra khỏi nó/Nếu không ra ngoài quỹ đạo của Tình yêu” (Từ trường chữ)

Điều đáng quý còn lại của thơ Ngã là chất thơ còn đọng lại cho mỗi câu thơ, ý thơ… như món quà tặng bạn đọc. Ngã không làm người đọc thất vọng khi kết thúc bài thơ của mình; luôn gởi gắm một điều gì đó như lời bộc bạch thân tình “Nhờ tưởng tượng thơ luôn bắt đầu mà không có kết thúc…” ; “người thở /hay hơi thở/mà tiếng thở dài/cột vòng quanh trái đất…”

“Ngạc nhiên”  Ngã âm thầm phát hiện ra vấn đề khi một lần vô tình chạm trán với cánh cửa kính trong suốt.Ta có lần cũng bất ngờ như thế trong đời, rồi xuýt xoa bỏ đi. Riêng Ngã có bài thơ để lại, còn tinh ý nhận ra một vật cản đáng sợ hơn: đó chính là cái vô hình không thể gọi tên, quy kết… “bước vào quán cà phê/trán tôi đập vào cửa kính trong suốt/ngạc nhiên!/và ngạc nhiên khiến tôi chợt hiểu/có những vật cản nhìn thấy/có những vật cản không nhìn thấy trong đời…”(Ngạc nhiên)

Có lần cùng trò chuyện về thơ, tôi nói lời nhận xét chủ quan: “Thơ bây giờ dường như đã mất giá”. Ngã không ngần ngại đáp lời tôi như một phản đề: “Thơ vô giá chứ ”! Bởi xét cho cùng, giá trị vĩnh cửu của thơ ca biết lấy gì cân, đong, đo, đếm để so sánh? khi thơ cũng là thú chơi tao nhã sang trọng, trí tuệ, rất riêng; vậy thì tất cả đều bình đẳng trong cuộc chơi này. Ngã không bao giờ tuyên ngôn, lập thuyết cho thơ phải thế này, thế nọ. Ngã tuyên ngôn bằng chính bài thơ của mình. Đó là cách định nghĩa về thơ hay nhất, thuyết phục nhất. Người làm thơ, hầu như ai cũng có thể đúc kết kinh nghiệm về tiêu chuẩn bài thơ hay. Nhưng làm được bài thơ hay lại là chuyện khác.

 Bài “Lời tụng ca vết thương” đã vỡ lẽ điều ấy:

“sợi chỉ đã chịu đóng đinh vào da thịt con người/ngậm nỗi đau mà không oán trách/bị vất vào sọt rác mà không oán trách/sự thầm lặng của chữ cũng vậy/nghĩa chữ xuyên thời gian/xác chữ còn nằm trong hố thẳm ngôn từ/có khi cũng là sợi chỉ mong manh”. Vâng! Sợi chỉ mong manh có thể cứu được mạng người, khi nó biết khâu lành vết thương “cho niềm tin kéo da non”. Không ngoài nghĩa ấy, “nghĩa chữ” xuyên thời gian, có khả năng xoa dịu tâm hồn.  Như con tàu khát vọng vượt mọi cách ngăn “kết nối đôi bờ da thịt”; như một nghi lễ, cho thơ tụng ca vết thương!

Cảm ơn đời với những cơn đau cho thơ phát lộ; là đường băng cho thơ cất cánh. Nỗi đau là nhân, thơ là quả! Chính lúc này ta mới hiểu vì đâu “Thơ vô giá”!

Vũ Tuấn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm