TIN TỨC

Lại nhớ Tết xưa | Nguyễn Minh Ngọc

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-02-06 17:19:26
mail facebook google pos stwis
3106 lượt xem

NGUYỄN MINH NGỌC

Dường như khi bắt đầu luống tuổi, người ta thường hay sa vào hoài niệm, mà giới trẻ nếu không thấu hiểu thì dễ cười nhạo, thậm chí cho rằng ấy sự “lẩn thẩn” của các cụ bô, âu đó cũng là chuyện thường tình. Bởi mỗi thế hệ có một cách nghĩ, cách cảm riêng, ấy là chưa nói đến quan niệm nhân sinh. Có điều, những gì đáo qua cuộc đời mỗi con người, cho dẫu ngọt ngào hay đắng đót thì đều để lại chút dư vị bồi hồi. Trong nhiều sự kiện bề bộn của một đời người, có lẽ mỗi dịp Tết đến, xuân về, thường để lại những kỷ niệm khó quên nhất, lắm khi nó cứ dai dẳng và ám ảnh mãi không thôi.

Ngày tôi còn bé, ở vùng quê Đức Thọ (Hà Tĩnh), bên dòng Lam, càng về cuối năm, thời tiết hay trở nên đỏng đảnh, hanh hao, cóng rét, thất thường tựa như một ả đàn bà góa. Vòm trời u ám, xám ủng, như thể mặt ai đó đương sa sầm ngó xuống trần gian vậy. Cây cối thi nhau rào rào trút lá, những hàng xoan gầy guộc chỉ còn trơ lại cành khẳng khiu, chọc thẳng lên trời. Chỉ vườn rau với những su hào, cải bắp, rau diếp, hành ngò… trên đất phù sa mỡ màu là mướt mát xanh, bất chấp giá lạnh. Rồi khi mưa phùn gió bấc tràn về, lạnh tái tê, rét từ trong ruột cuộn ra. Có manh áo tấm quần cũ kỹ nào người ta bèn đem ra “diện”, bởi vải càng dày thì càng hữu dụng. Nhớ câu “No cơm tấm, ấm áo vá” là vậy. Ngắm chiếc áo bông chần ô quả trám, cũ sờn, bợt bạt của người già, mới thấy thương, thấy tội. Vậy nhưng đâu phải ai cũng có. Lắm người hễ ra đường là khoác áo tơi dày cộm để gió khỏi quật ngã. Dễ bắt gặp những cặp chân trần mốc thếch như da bụng rắn vì giá rét, tóp teo lồ lộ trong làng, ngoài ruộng. Có lẽ đó là những nét không thể giấu vào đâu của một thời khốn khó, đói ăn, thiếu ấm. Cổ nhân có câu “bụng đói cật rét”. Khi ông “anh ruột” lép kẹp, thì chừng như giá lạnh càng được thể hoành hành ác liệt, ngồi đâu cũng thấy co ro!

Quanh năm ăn đói, thức ăn chủ lực là “dưa cà… dưa cà, nhút”; còn mặc thì phong phanh, nên lũ trẻ như tôi thời ấy chỉ mong mỗi dịp nhà có giỗ chạp hay Tết nhất. Vì những lúc ấy nếu không được chén “thả ga”, thì chí ít cũng có chút chất tươi chấm mút, thêm miếng thịt, miếng cá ấm chân răng. Và cảm thấy đời “thung thướng” đến vậy. Ấy là cái tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới” thì nghĩ thế, có biết đâu để có được một cái tết đúng nghĩa thì mẹ tôi đã phải lo đến thắt cả ruột gan. Thành thử năm nào cũng vậy, cứ vào dịp đầu tháng Chạp, mặc dù đương bận rộn cắm mặt ngoài ruộng lo gieo cấy vụ đông xuân, rét cóng xương, tê tái, nhưng về đến nhà, có lúc thấy mẹ tôi ngồi thừ ra trên bậu cửa, mắt nhìn xa xăm, đăm chiêu. Hình như có tiếng thở dài nén lại.

Sau này lớn lên, dần dà tôi mới hiểu cái câu thành ngữ: “Tết đến sau lưng, ông vải thì mừng, con cháu thì lo”. Để có được một cái tết tươm tươm một chút thì mọi thứ phải được chuẩn bị từ sớm theo kiểu “kiến tha lâu đầy tổ”. Ăn nhau ở vai trò bà nội tướng - nhạc trưởng “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Ai biết lo toan và vén khéo thì chồng con được nhờ và ngược lại. Hằng năm, cứ ra giêng nhiều gia đình đã phải tính chuyện nuôi lợn, chăn gà, thả vịt, vừa để có thực phẩm sống cân nộp “nghĩa vụ”, nuôi bộ đội và các cơ quan đoàn thể, bù lại xã viên chỉ được trả bằng công điểm, đến mùa vụ thì nhận vài chục cân thóc. Nhưng trong số cả đàn gia súc gia cầm ấy, thể nào người ta cũng phải chọn một chú ỉn dành để vỗ béo, chờ cận tết thì mấy nhà hàng xóm bàn nhau đụng thịt để gói bánh chưng, giã giò, đánh tiết canh, làm món dồi, món luộc, rồi hấp, nấu đông, lấy xương hoặc chân giò ninh măng miến… Nói vậy chứ nếu hộ nào chưa “tròn” nghĩa vụ với ông nhà nác mà dám cả gan chọc tiết lợn… eng éc, thì đừng có giỡn mặt nhé. Chỉ đám gà qué là được “xử” tự do thôi, nhưng đừng tưởng lúc nào cũng có thể “lên đĩa” nhé. Nhà nghèo, đâu dám ăn “sang”, còn phải cắc củm mang ra chợ, bán kiếm tiền còm, sắm sanh thứ khác chứ. Ấy là chuyện nuôi nấng bình thường, chớ không may gặp trận dịch, gà toi cả lũ, thì coi như khóc ròng! Ai giỏi, khéo thiến được cặp gà trống, nuôi béo mầm, thì có thể yên tâm. Vừa có gà cúng tất niên, vừa có thịt gà chén ba ngày tết, không ngán. Ngoài ra, người nào siêng thì ra đồng kiếm thêm mớ tôm, tép, xúc mớ cá vụn; sang hơn thì úp nơm kiếm mớ con rô, ít con trắm, hay vài con diếc, con tràu (cá lóc), hoặc thả trúm kiếm ít lươn mang về nữa thì có ba bữa Tết xông xênh rồi.

Thời chiến tranh phá hoại, hầu hết các vùng nông thôn khu Bốn, người dân đều vào hợp tác xã nông nghiệp. Nhưng rồi cái kiểu cứ đánh kẻng ghi tên, cơm vua ngày giời, tới đâu thì tới chả chết ai. Thì vẫn “bờ xôi ruộng mật” ấy thôi mà sao vẫn “cặm cụi” làm lụng mà chẳng nên ăn, cứ vêu vao, đói dài! Biết vậy, nhưng chả biết kêu ai. Đành tranh thủ mò thêm giỏ cua, cáy, hay ra sông cào hến cho lành. Khi mà quanh năm ngày tháng sống dưới tầm bom rơi đạn vãi, thú thật chả mấy ai dám nghĩ sẽ đón năm mới thế nào. Bởi mạng sống của con người mong manh lắm, chỉ cần nghe tiếng gầm rú của đàn quạ phản lực Mỹ thôi, ngồi dưới hầm kèo chữ A hay đường hào giao thông, trước tiên, ai cũng chỉ cầu trời khấn Phật sao cho làng quê mình, gia đình mình được bình an là đủ. Nên chi cái việc lo Tết bị hạ xuống hàng thứ yếu. Nhưng nói vậy, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì cũng không ai dám nghĩ chuyện “tiêu cực”, phó mặc rồi bỏ bê chuyện tết nhất, cúng kiếng tổ tiên, ông bà. Bởi Tết Nguyên đán là dịp khép lại năm cũ, mở đầu cho một năm mới. Nên bao giờ cũng hết sức thiêng liêng và trọng đại trong tâm thức mỗi người Việt, cho dẫu có ở tận chân trời góc biển nào đi chăng nữa! Nhưng nỗi lo cơm áo luôn đè nặng lên đôi vai của phụ nữ, các bà nội trợ bạc mặt toan tính. Này nhé, ngoài phần “cứng” là khoản thực phẩm “nhà trồng được” thì mỗi lần đi chợ phiên, mẹ tôi phải khởi động việc tích cóp hàng tết dần từ độ tháng mười âm lịch, chứ không đợi vô một chạp mới mua. Mẹ cứ lẳng lặng sắm dần. Có khi gồng một gánh rau, củ, quả trĩu trịt ra chợ, chỉ thu được một nắm tiền lẻ nhàu nát, chả dám mua đồng quà tấm bánh cho con, nhưng bao giờ cũng nhớ liễn trầu xanh óng, chùm cau với khúc rễ chay về cho bà nội tôi. Thường khi mua sớm, thì tất nhiên giá cả có mềm hơn chút đỉnh, lại tha hồ lựa chọn. Từ ít măng khô lưỡi lợn, đến vào bó miến dong, rồi nấm hương, mộc nhĩ, hạt tiêu…

Kiến tha lâu cũng đầy tổ. Đến giữa tháng Chạp, khi mọi thứ đã hòm hòm đâu vào đấy, mẹ tôi vẫn còn kiểm đếm xem còn thiếu thức gì để bổ sung trong phiên chợ cuối năm. Hầu như lúc này, chỉ còn mua vài bó lá dong với ống giang chẻ lạt gói bánh, gói giò, thêm ít hương trầm nữa là đủ. Kiểu gì, thì ba ngày Tết cũng phải có nồi măng hầm chân giò, đây là món chủ lực. Sau khi mổ lợn, có thịt làm nhân, mẹ tôi hông đậu xanh chà rồi lấy ra vo từng nắm, thì cha tôi trải nong ra giữa nhà tự tay gói. Chẳng cần khuôn, ông gói bộ vậy mà mười chiếc như một chục, thảy đều vuông chằn chặn và chắc khừ. Xếp lên nhau nom đến là thích mắt. Bao giờ, ông cũng dành ra gói một vài cái bé tẹo, gọi là bánh “đầu đày” dành cho lũ con được nếm ngay khi nồi bánh chín. Đó là một cái thú mà các đấng sinh thành thường dành cho con cái. Cứ chập tối hăm tám hoặc hăm chín thì kê đá, quây chắn gió rồi chất củi gộc, nhóm bếp, bắc nồi bánh chưng. Lửa hực suốt đêm, cánh đàn ông con trai thay nhau canh nồi bánh sôi sùng sục, vừa để châm nước thêm, vừa gạt than bắc ké nồi măng ra bên cạnh. Có khi giải chiếu tụm nhau chơi tú-lơ-khơ hoặc đánh tam cúc để giết thời gian. Gần sáng thì rút bớt củi, đến tinh mơ mới vớt bánh. Đem dúng nhanh vào chậu nước sạch, lấy ra xếp lên bàn, kiếm miếng ván đậy lại, rồi chất cối đá hay vật nặng bên trên để ép bánh cho kiệt nước, có vậy thì bánh chưng mới rền. Kịp chiều 30 thì có bánh sắp lên thờ tổ tiên và cúng tất niên. Cái nếp ấy, thời yên hàn hay cả lúc giặc giã chiến tranh vẫn vậy. Gói bánh chưng đi liền với giã giò để kịp bắc nồi luộc. Món này chỉ đàn ông lực lưỡng, khỏe tay mới làm nổi. Thịt nạc sau khi lọc hết mỡ, thái quân cờ cho vào cối đá, rắc tiêu, rồi quết. Hai tay, hai chày gỗ, cứ thi nhau giã phùm phụp liên hồi kỳ trận, tới lúc thịt sánh nhuyễn, dẻo mệt thì dừng. Véo một chút đưa lên mũi, nghe mùi thơm là được. Quê tôi, khi giã giò, thường người ta hay bỏ thêm ít bột nếp, bột gạo trộn đều, để khi quết thịt tăng thêm độ dẻo, độ dính. Có dạo, tôi cứ thắc mắc, nghĩ hay tại quê mình nghèo nên độn thêm vào giò cho nhiều chăng? Tôi lấy làm lạ, hỏi thì cha tôi bảo không phải như con nghĩ đâu. Đói no chi cũng ba bữa Tết, chẳng lẽ ngả cả con lợn vài chục cân, lại thiếu thịt chắc? Và sự thật, khi cầm miếng giò mịn màng đưa lên miệng nhấm nháp, đọng lại nơi cần cổ, có đủ dư vị thơm, bùi, béo ngậy... và dai.

Thời ấy làm gì có tủ lạnh, tủ cấp đông, một cây giò nếu ăn sẻn được cả tuần mà vẫn không hề giảm hương vị. Hóa ra mỗi nơi người Việt bất kể giàu nghèo đều có một bí kíp riêng trong nghệ thuật ẩm thực. Rồi tục chặt tre dựng cây nêu trước Tết, nam thanh nữ tú thì chơi đu quay, hoặc ném vòng cổ vịt, hát đối đáp… Con nít thì xúm nhau đánh đáo, túi rủng rỉnh những đồng xu. Nhưng thời đạn bom ì ùng, ai nấy lo củng cố hầm hào để giữ cái mạng sống trước nhất. Nếu có được khoảng trống do ngưng bắn thì chuyện chơi vẫn bị xếp sau chuyện ăn. Rồi kinh tế eo hẹp, việc ngăn sông cấm chợ, hàng hóa khan hiếm, thứ gì cũng phân phối và xếp hàng, nên chẳng mấy ai còn tâm địa nào mà nghĩ đến chuyện lễ, chuyện hội. Nhiều trò chơi dân gian cứ thế dần mai một. Giờ đây, nhắc chuyện tết tư ngày trước, lớp trẻ giờ khó mà hình dung, sao ông bà ngày trước cơ cực vậy? Xã hội phát triển, kinh tế nở nồi, chả ai còn phải lo tích trữ gom góp như thời ông bà ngày trước. Mọi thức phục vụ Tết bây giờ luôn có sẵn trong các siêu thị hoặc cửa hàng tiện lợi. Muốn gì có nấy, hàng hóa ê hề. Không sợ thiếu, chỉ lo không nhiều tiền! Dẫu không phải ai cũng đều có cuộc sống dư giả, nhưng có lẽ bước sang thiên niên kỷ thứ ba này, không còn mấy người phải bận tâm mong chờ đến Tết để có miếng ăn ngon như ngày trước nữa. Nhu cầu ăn bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Chuyện chơi được chú trọng hàng đầu.

Người ta nghĩ chuyện Tết này sẽ đi du lịch những đâu, đến những nơi chưa đến. Các tour du lịch mời chào, chỉ sợ không đủ sức và tiền bạc để đi mà thôi. Nhưng mối hiểm họa đại dịch còn treo lơ lửng trên đầu, nên nhiều người chọn cách du xuân gần, thậm chí là “án binh bất động” cho lành. Thật khó mà triệt tiêu hoàn toàn Covid-19, chỉ còn cách là chấp nhận sống chung với nó một cách an toàn và thông minh nhất mà thôi. Cho dù có rất nhiều luồng ý kiến bàn luận về việc có nên duy trì Tết Nguyên đán nữa hay không, thì phần đông người Việt vẫn luôn coi đây là dịp thiêng liêng để hướng lòng mình về nguồn cội. Vấn đề là làm sao bảo tồn được truyền thống của ông cha từ ngàn xưa truyền lại, gạn đục khơi trong, coi trọng và giữ gìn những nét đẹp văn hóa. Nhân dịp sắp đón Tết ông Hổ, xin có đôi lời. Gọi là “ôn cố tri tân”! 

Nguồn: Văn nghệ số 4+5+6/2022 (Tết Nhâm Dần)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm