TIN TỨC

Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-07-04 08:26:28
mail facebook google pos stwis
1648 lượt xem

VŨ QUẦN PHƯƠNG

Như thế là tôi đã đọc liền hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố). Hai năm khoảng 150 bài. Năng suất cao. Rất cao so với mọi người viết bây giờ.

Anh tìm thơ ngay trong đời sống thực của nơi anh sống và của chính lòng anh. Thơ anh như phóng sự xã hội và thấp thoáng trong ấy là nhật kí lòng anh.

Bút pháp giản dị, ngôn ngữ gần với văn báo chí. Rất ít mỹ từ pháp, ít gần như không ẩn dụ, biểu tượng. Đọc lên thấy nghĩa ngay hiểu ý ngay. Nhiều khi anh lập tứ cũng dễ dàng:

- Đây là một cách: lấy ý chính của bài, ý một nửa, làm cái bản lề xoay ra các phía mà tìm chi tiết, những chi tiết đồng dạng về hình thức nhưng đối nhau, hoặc bổ sung nhau, về ý. Cứ thế mà kéo một hơi đến hết bài. Bài thơ mười khổ, mỗi khổ hai câu Xin trich hai khổ

Mang danh nghệ sĩ nửa vời

Nửa ngồi, nửa đứng, nửa đời tỉnh mê

Nửa cơm áo, nửa khen chê

Nửa con tim giữ lời thề hôm xưa  

- Bài thơ mang tên Ru thì lấy luôn động từ ru ấy mà ru mọi thứ

Ta ngồi ru cỏ ngày xưa;

Ta ngồi ru nắng bên cầu;

Ru cau tỏa bóng trầu không;

Ta ngồi ru những cơn mưa;

Ta ngồi ru mấy câu thơ  

vv…

 


Nhà thơ Vũ Quần Phương (phải) và họa sĩ Lê Tiến Vượng.

Những câu tôi vừa trích đều là các câu mở đầu cho mỗi khổ thơ, bốn câu. Để làm đầy cho bốn câu đó thì nhân ru cỏ anh kể ra cỏ may cỏ gà. Rồi từ vần gà anh ru chiếc lá đa. Rồi từ đa anh ru sang chú Cuội chả chú cuội ngồi gốc cây đa mà. Còn ở khổ thơ ru nắng thì không hiểu sao anh lại Chí Phèo Thị Nở đi lâu không về. Cái khô thơ Ru cau ru trầu thì anh ru luôn rặng duối ý hẳn ru các lọai cây thân thuộc ở quanh nhà: Ru cau tỏa bóng trầu không Ta ru rặng duối tơ hồng nghêu ngao. Đến đây thì cái vần ao nó kéo anh ru ngược lên trời Ta nằm ru mấy vì sao. Chắc là các ông sao trong đồng dao: một ông sao sáng hai ông sáng sao… vì câu sau chõng tre bầy trẻ hát gào bi bô. Tôi đoán thế. Nghĩa là nguyên liệu làm nên khổ thơ tưởng xa nhau nhưng vẫn trong một không gian cảm xúc. Cả bài thơ cứ hồn nhiên, câu gọi câu, tự lôi nhau đến, do ý hoặc do vần, thanh thoát lắm. Người xưa sẽ khen là văn hoạt chứ chưa phải văn già. Nhưng cả bài thơ không chỉ chạy trên một mặt phẳng ấy mà chấm hết. Ở những câu kết, Lê Tiến Vượng, vẫn trong tư thế ngữ pháp ấy nhưng nâng lên một mặt phẳng khác, cao hơn, đụng vào trái tim người đọc, ở đây, tới ba nấc đụng, đụng vào thân phận, kiếp người rồi, chứ không phải gặp đâu ru đó như phía trên:

Ta ngồi ru mấy câu thơ

Làm con thuyền nhỏ bơ vơ trở về
 

Ru tình tình vẫn đang mê

Ru đời, đời vẫn tái tê nỗi đời
        

Ta ngồi ru với ta thôi

Lời ru mẹ dạy

ta ngồi ru ta.

Nếu các khổ trên ru cỏ ru cây ru nắng ru mưa… có hơi thơ tự sự, thống kê đồng mức thì ở phần kết, thơ hóa trữ tình ở mức sâu và nặng hơn. Thủ pháp này hay được anh áp dụng nhưng với nhiều biến hóa. Cũng là một khía cạnh tài tử tài tình. Có bài thật như phóng sự, trong chất liệu, trong giọng kể. Người đọc thú vị tiếp nhận lượng thông tin, thoáng và vui. Nhưng đến hết bài thì hóa lại ra đang tiếp nhận lượng tâm hồn, thấm thía, hàm xúc. Có bài cấu tứ kiểu định nghĩa, cứ hai câu thành một khổ, câu trước tả sự câu sau tả tâm. Xin trích, ở bài tuổi thơ, làm bằng chứng:

Tuổi thơ vùng vẫy cầu ao

Có con đom đóm bay vào giác mơ
 

Tuổi thơ là chiếc gầu đôi

Mẹ cha tát nước ta ngồi đếm sao
 

Tuổi thơ trắng chiếc khăn tang

Bom rơi nhà cháy cả làng đưa ma

Đấy là phần đóng góp làm nên nét đặc sắc dễ đọc dễ thân dễ phổ cập của thơ Lê Tiến Vượng. Nhưng để hưởng thụ được ưu điểm ấy, chúng ta cần đọc vào toàn khối bài thơ, nắm lấy ý bao quát, nhận ra cái giọng xuyên suốt của nó. Bỏ qua những du di chữ nghĩa. Lê Tiến Vượng, có lẽ do muốn đạt tính liền mạnh của hơi thơ, anh ít chịu dừng lại trong lao động chữ. Phía trên tôi dùng cụm từ “du di chữ nghĩa” là muốn nói có những chữ anh dùng như một nét nhòe của nghĩa chứ không phải nét mảnh chính xác của nó. Tôi không dám nghĩ đây là một nhược điểm vì trong nét nhòe bạn đọc có thể nhận ra nhiều nghĩa gần đúng của câu thơ. Sự tiếp nhận có thể phong phú hơn chăng. Tuy nhiên, như trong bài thơ Ru vừa nói trên, Ta ngồi ru chiếc lá đa / lại thương chú Cuội bỏ nhà đi đâu thì ba từ chiếc lá đa sợ không chính xác. Người ta có thể lẫn ý nghĩa của nó với chiếc lá đa trong câu ca Sự đời như chiếc lá đa...  Vả lại lá đa thì không dính gì đến chú Cuội. Chú Cuội ngồi gốc cây đa kia mà. Giá anh viết Ta ngồi ru gốc cây đa/ Lại thương chú Cuội… thì mạch thơ tung hứng thanh thoát hơn nhiều.

Một đặc điểm trong việc tìm thơ của Lê Tiến Vượng là anh tôn trọng tính chân thật. Dù là thơ, nơi người ta nói rộng vô bờ bến tính lãng mạn, anh vẫn muốn miêu tả hiên thưc như nó vốn có. Bài Hà Nội trong tôi, chủ đề cố nhiên là ngợi ca Hà Nội, nhưng trong thân xác các câu thơ thì nó như một phóng sự nghiêm cẩn: Sông thì đục, khói thì đen / Ta hòa Hà Nội vào đêm tự tình. Đêm tự tình thì mơ mộng quá, thần tiên quá nhưng nước ô nhiễm trời ô nhiễm thì vẫn cứ phải nói là ô nhiễm. Nói, mà tự tình thì vẫn cứ tự tình. Đấy là bản lĩnh của phép trữ tình Lê Tiến Vượng. Nhà thơ phải nấu chính mình. Nấu mình, cho mình thử lửa chứ không phải nịnh mình. Phải chăng anh đã học vào cảm xúc khỏe mạnh của dân gian trong ca dao. Ca dao nịnh vợ mà dám nịnh đến thế này:

Đêm nằm thì ngáy o o

Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.

Ngáy thì phải tả là ngáy, tượng thanh hẳn hoi o...o, gợi cảm lắm (kinh!) nhưng chồng yêu vợ lại thấy đó là du dương thì cứ nói du dương, chứ sao!

Lê Tiến Vượng quan niệm công dụng của thơ:

Thơ là thuốc chữa tin yêu

Cho bao tâm sáng ngộ điều chúng sinh

Tác dụng giác ngộ, tác dụng tỉnh thức, nhận ra khát vọng của “chúng sinh", Tìm là tìm chất thơ lớn lao vất vả của đời. Chứ không phải những giác mơ tiên, nhân tạo con con xinh xắn. Tôi nghĩ đấy là một quan niệm đúng, để thực hiên được không dễ:

Những khi trời đất đaỏ điên

Có thơ tung giấc mơ tiên...mà về

Thực thi quan niệm ấy, thơ Lê Tiến Vượng đã thu đươc một công dụng phụ, có sức hấp dẫn, ấy là tính trào lộng trong cảm xúc trữ tình. Đôi khi nhà thơ tự hạ mình xuống vì tính thật thà. Nhưng câu thơ thật thà, nhiều khi bài hước ấy lại nâng anh lên. Thế mới sướng, tác giả đứng cao hơn bài thơ:

Ví đời như giọt mắt em

Ta kẻ chết đuối vớt lên... lại chìm

Tôn trọng hiện thực trong cảm xúc, trong tư duy… đã đành, anh còn vận dụng ngôn ngữ thường ngày của đời sống thành ngôn ngữ thơ. Anh khuyên người tình:

          Em à, em cứ thơ ngây

          Đừng mang cái vẻ ta đây làm gì

          Đâu phải Phật để từ bi

          Người quê chất phác có gì dùng thôi

Cái vẻ ta đây, có gì dùng thôi nó là ngôn ngữ nói để mộc, vào đây nó lại rất nên thơ vì thơ cũng đang khuyên người yêu cứ để mộc mà sống, vôi ve vào làm gì:

          Em à, hãy nhẹ nước son

          Để anh tỉnh táo mà còn nhận ra.

Bài thơ đến đấy thôi. Hai câu anh viết cho đủ khổ lại phá cảm xúc.

Tính chân thật phát huy lợi thế nhất khi thơ nói về chính người viết. Giọng tự trào hồn nhiên xuất phát từ sự dám nói. Nói trong một ngày sinh nhật:

          Sen từ bùn đất lớn lên

          Ta từ cái khó cái hèn bước ra

          Phập phù nửa Phật nửa ma

          Tổ tiên phù trợ nay ta thành người

Nói, khi chính mình chạm đến tuổi già

          Tuổi già đang đến thật gần

          Bây giờ đến cái khóa quần cũng quên

          Vào ra chẳng nhớ tắt đèn

          Đêm nằm ngủ ngáy như kèn đám ma
 

          Năm mươi bạn bảo là già

          Mấy em bảo trẻ, suy ra… bình thường

Câu thơ có duyên ở cái logic “suy ra” này. Cái giọng thơ này là một thương hiệu của Lê Tiến Vượng. Nó nhất quán trong cả 150 bài tôi đọc liền hơi.

Viết cứ như đuà mà nhiều bài sâu sắc sự đời. Bài thơ về Mặt có sức khái quát xã hội:

          Cùng là cái mặt ở đời

          Kẻ thì gớm ghiếc, kẻ hơi bị lành

          kẻ “mặt thớt" kẻ đành hanh

          Mặt la mày lém, mặt xanh nanh vàng

          Kẻ thì mặt đỏ như vang

          mặt vàng như nghệ mênh mang cõi đời

          Cùng là cái mặt thế thôi

          Sao em lại cứ rạng ngời thế kia

Từ trào phúng sang trữ tình thật nhẹ nhàng. Vui, tếu mà thâm trầm. Bài thơ viết đêm trung thu, nhân trẻ con chơi trò mặt nạ. Cuối bài lại có gì thấm thía nhân tình, hỏi vào trời đất tiêu tao: Bao nhiêu là mặt, mặt nào cho ta. Bài thơ Làm vua (tr47) vừa bi vừa hài, tùy cách nhìn của bạn đọc nhưng nó là chân thực. Thực nên mới bi và cũng vì thực nên mới hài:

          Cuối cùng còn một cái tên

          Lưu danh muôn thuở hay quên muôn đời

Lê Tiến Vượng đã tuyên dương vua bằng giọng của hề chèo. Các bài Công sở, Chạy, Đi chợ, Làm quan… cũng có kiểu khái quát như vậy. Khái quát bằng thống kê gạch đầu dòng… mà thuyết phục. Có lẽ nó đã là những việc nhỡn tiền từng được nhiều người của nhiều thời nói đến. Hiện thực đã thành biểu tượng mà anh vốn là họa sĩ rất tài sáng tạo logo.

Giọng thơ anh là một yếu tố thẩm mỹ quan trọng. Nó nói ra được tâm trạng ẩn giấu vốn khó nói hoặc không muốn nói. Ngay trong thơ thất tình, vốn dễ khêu gợi tình cảm, anh cũng không nói quá, Mà trong đời thì nghiêm túc với khôi hài nhiều lúc lẫn vào nhau. Tình cảnh đáng khóc mà lại làm người ta cười. Dào dạt, buồn thương gì gì thì cũng cứ nói như nó vốn thế. Ấy vậy mà lại hóa ra đúng mức trong sự vui buồn. Chỗ này vốn khó. Thất tình ư. Cố nhiên buồn. Nhưng mếu máo quá thì thành hài hước, mà hùng hổ quá thì cũng vô duyên. Anh Vượng viết như tự thú. Thật thà nên dễ được chia xẻ:

          Cái buồn em chẳng mang đi

Anh đành cất kỹ phòng khi em đòi

Cau vàng trầu héo khô vôi

Không em...rồi cũng có người khác em

Bồ hòn ngậm mãi cũng quen

Rượu buồn uống mãi đứng lên... lại nằm

Rượu buồn uống mãi đứng lên...đà lãng mạn ái tình đang đà bay bổng, bỗng rơi bịch: lại nằm.  Đứng lên...Mà say thì... nằm. Vương tướng gì thì cũng đến thế

Cũng nên chú ý cái giọng chủ đạo của thơ Lê Tiến Vượng là hơi dân gian, bình dân. Nhưng ngay trong không gian ấy lại ủ chứa nhiều mầm suy tưởng rất hàn lâm. Gần như bài nào cũng có câu hay kiểu ấy. Đôi khi, như ở bài Tô Thị ngày nay (tr 70), 5 khổ, 20 câu, nếu chỉ tách 6 câu bút pháp “hàn lâm" ra đủ tạo nên bài nhưng ở một giọng thơ khác. Có khi lại sâu nặng hơn. Tôi nghĩ thế, Lê Tiến Vượng kiểm tra xem:

Đâu cần Xứ Lạng xa xôi

Đã bao Tô thị làng tôi chờ chồng
 

Chồng người về đã lên quan

Chồng mình vẫn phía non ngàn biệt tăm
 

Ngày nay Tô thị sao nhiều

Nào ai có thấu những chiều... Vọng phu

 

Nếu điều đó đúng, thơ Lê Tiến Vượng còn nhiều tiềm ẩn để biến hóa, còn đất trống, ở cả tứ lẫn tình, để hoàn thiện. Xin được gói lại trong ba chữ: Chúc mừng anh!

23-4-2019
V.Q.P.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm