TIN TỨC

Má tôi

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-02-13 07:41:53
mail facebook google pos stwis
248 lượt xem

BÍCH NGÂN

Sáng ngày cuối năm, dịp nghỉ Tết dương lịch mấy chị em cùng về thăm má. Má tuổi cao. Em gái út sống bên má cũng đã năm mươi. Ba đứa con lớn và gia đình riêng mỗi đứa đều định cư Sài Gòn.

Hai năm nay má không còn khỏe. Các con ở xa lúc má đau bệnh mới vội vã quay về và cũng vội vã trở lên Sài Gòn khi má vừa khỏe lại. Đứa nào cũng vướng víu việc chung việc riêng và đứa nào cũng thấy ray rứt bởi thời gian dành cho đấng sinh thánh quá ít. Rồi chị em ngoéo tay nhau, ai có thể thu xếp việc là về ngay với má...

Chiếc xuồng lé đé nước của má

Tôi lên xe. Giường nằm. Duỗi chân, nằm dài. Qua cửa kính thấy nhà cửa, cỏ cây, đồng ruộng, sông ngòi. Qua cửa kính, những con đường miền Tây, đường bộ, đường sông, đường qua những chiếc cầu lớn nhỏ gợi lại trong tôi biết bao hình ảnh buồn vui gắn với tuyến đường này và nhớ nhất là những chuyến phà chạy rì rì ngày đêm đưa hành khách đợi chờ phờ phạc từ bên này bờ để được sang bên kia bờ và ngược lại, của dòng sông Tiền, sông Hậu. Giờ chỉ ít phút là xe vượt qua sông Tiền, sông Hậu trên những chiếc cầu với những sợi dây cáp giăng giăng tương tựa hình những cánh quạt nan xòe rộng.  

Dù chỉ nhìn mặt sông mênh mang lấp lánh mây trời, loáng thoáng hình bóng vừa mơ hồ vừa rõ nét như thước phim ký ức được chiếu lại, lại đưa tôi về với tuổi thơ.

Tôi như thấy lại, gặp lại tuổi thơ của mình, tuổi thơ của đứa trẻ lớn lên trong chiến tranh. Và dường như sự dồn đuổi của ký ức, của yêu thương khiến tôi nhớ, dĩ nhiên không thể nhớ thật rõ mọi thứ nhưng có những hình ảnh, những từng tình tiết vẫn còn nguyên vẹn như không phải đã lùi xa hơn 50 năm.

Ba tôi thoát ly gia đình tham gia kháng chiến. Mảnh đất cha ông mà ngoại tôi, má tôi, cậu dì tôi lớn lên và sinh sống lại lọt vào vùng tạm chiếm, nơi đó trở thành ấp chiến lược của chính quyền miền Nam Việt Nam Cộng hòa. Là vợ của “Việt cộng” nên má tôi phải đùm túm mấy đứa con nhỏ, mùng mền, xoong nồi rời nhà cửa, bỏ đất đai, lặng lẽ ra đi trong đêm. Tôi còn nhớ mang máng tiếng mái chèo khuya trên mặt sông loang loáng ánh lân tinh dưới bầu trời rải rác những vì sao.

Má tôi được chính quyền vùng kháng chiến giúp cất ngôi nhà sàn mái lá bằng lá dừa nước. Ngôi nhà sàn cất dưới tán cây rừng và quay mặt ra mặt sông tại một ngã ba sông ở ấp Bàu Hầm. Một mình má chèo những chuyến xuồng chở tre, trúc, sậy…từ đâu đó tôi không rõ, bằng chiếc xuồng lé đé nước, bà chèo xuồng cả ngày trời mới về tới nhà. Và khuya sớm một mình, với vật liệu có được, má tôi cặm cụi bện đó làm đăng. Rồi một cái đó được đặt xuống dòng sông để bắt tôm bắt cá.

Cá tôm lúc đó nhiều vô số. Có con nước “dậy tôm”, “dậy cá” mỗi lần má gồng lưng kéo cái đó lên xuồng, chiếc xuồng suýt chìm vì trọng lượng cá tôm trong cái đó. Không ít lần, cá ngác nguyên bầy dẫn nhau chui vào chiếc đó. Má tôi khó nhọc kéo cái đó đầy cá lên. Rồi má tôi buộc sợi dây vào từng con cá và chèo xuồng đưa tôi và đứa em trai tôi cùng lũ cá sang bên kia bờ sông. Tôi và thằng em vừa lên bảy, kéo lệch sệch những con cá ngác vừa to vừa dài đi đến từng nhà ở đầu trên xóm dưới để tặng cho họ. 

Sống giữa mênh mông sông nước nhưng má tôi không biết bơi. Trên chiếc xuồng nhỏ, lúc nào cũng có cái can nhựa rỗng, cái can nhựa màu trắng, nó làm chiếc phao cho má tôi, một cán bộ của Hội phụ nữ, một nông dân, một nữ hộ sinh, một bà đỡ đẻ mà người dân một vùng sông nước quen gọi má tôi “Bà mụ Tư” hay “Bà mụ Tư Mãnh” dù ngày đó má mới hơn ba mươi tuổi.     

Má vừa làm công tác đoàn thể vừa làm người đỡ đẻ cho khắp một vùng sông nước. Ngôi nhà sàn biệt lập bên ngã ba sông nép mình dưới cánh rừng âm u. Và cũng vì biệt lập lại ở ngay ngã ba sông mà ngôi nhà của má thành điểm dừng chân của nhiều đoàn quân giải phóng và cũng là địa điểm lọt vào ống nhòm từ phía trực thăng. Nhà má hai lần bị bom thiêu cháy và hai lần má làm lại nhà trên nền nhà cũ.

Chiếc xuồng nhỏ với mái chèo của mình, má tôi không chỉ đi đến nhiều nơi, nhiều gia đình để đón rước những sinh linh chào đời, bà còn nhiều lần chèo xuồng chở tử thi, những người dân vô tội bị bom pháo tước đi sinh mạng, ra đến chợ Cà Mau để cùng bà con đấu tranh trực diện với chính quyền Việt Nam Cộng hòa lúc đó hiện diện tại An Xuyên, thành phố Cà Mau hôm nay.

Chín tuổi, tôi làm chị hai đứa em trai, đứa lên bảy, đứa lên hai. Mà đâu chỉ làm chị. Có lúc tôi còn làm mẹ của đứa em lên hai. Thức đêm hôm, ẳm bồng, chiều chuộng, hát ầu ơ, ăn uống, giặt giũ. Nhưng tôi không cảm thấy vất vả. Bởi tôi muốn chia sẻ nhọc nhằn với má và tôi yêu thương các em tôi. Chúng cũng như tôi, cứ nơm nớp sợ. Sợ sông sâu. Sợ dòng chảy siết. Sợ rừng rậm. Sợ rắn, sợ rết, sợ muỗi, sợ con bù mắc…rồi sợ đêm đen, sợ ma, những con ma với vô số hình dạng gớm giếc có thể nhảy xổ ra bất kể lúc nào. Sợ tiếng máy bay quần đảo trên đầu. Sợ bom rơi. Sợ đạn lạc. Sợ cha mình không còn được trở về, sợ không dám nói ra nỗi sợ lúc nào như cũng bóp nghẹt trái tim trong lòng ngực non nớt, là sợ không nghe thấy tiếng mái chèo của má. Sợ con sóng dữ nhấn chìm chiếc xuồng lé đé nước của má…

Bà mụ Tư

Bàu Hầm, địa danh mà mãi sau này, di chuyển nhiều nơi và định cư tại Sài Gòn hơn ba mươi năm qua, có lẽ là cái tên hằn sâu vào trí nhớ của tôi. Bàu Hầm, nơi ngôi nhà sàn biệt lập của má trở thành nơi tìm đến của biết bao gia đình có người đàn bà chuyển bụng sắp sinh. Bất kể giờ giấc, bất chấp đêm hay ngày, nắng hay mưa, nước ròng hay nước lớn, kể cả máy bay quần đảo trên đầu, má luôn sẵn sàng. Nếu sản phụ ở xa và trở dạ vào ban đêm, má kéo cả ba đứa con lóc nhóc theo cùng. Có lần, đến đâu đó ở vùng Khai hoang đồng không mông quạnh, căn chòi mà người đàn bà đang rên la trong cơn đau đẻ chỉ có chiếc giừng tre duy nhất, tôi phải kéo hai đứa em ra ngoài, ôm chúng trong bóng đêm với bầy muỗi đói, hồi hộp chờ tiếng khóc của đứa trẻ được chào đời.

Có lần má được người nhà của sản phụ rước đi từ sáng sớm nên má để lũ con ở nhà. Không ngờ lại gặp ca đẻ khó, đến đêm khuya má mới về nhà. Lúc má về đến nhà, thằng em út mới hai tuổi đang lên cơn sốt. Má luôn bình tĩnh trước mọi tình huồng và là một chiến binh quả cảm. Má tiêm cho thằng con mũi thuốc nhưng nó vẫn sốt cao và co giật. Dù là một nữ hộ sinh cừ, trong lúc cơn co giựt thằng bé không dứt, má tôi chỉ vào con mèo mướp, má bảo tôi và đứa em kế, bắt nó lại, đè nó xuống, bà sẽ mổ lấy cái mật. Mật mèo mát có tác dụng làm dịu cơn nóng. Tôi nghe lời má. Tiến về phía con mèo. Trong ánh đèn dầu với quầng sáng mờ mờ, tôi thấy ánh mắt sáng như ánh sao của nó. Ánh sao nơi mắt mèo làm tôi lùi lại. Tôi vội kéo thằng em kế xuống xuồng, bơi qua sông sâu. Vừa bơi vừa réo vang cả khúc sông tên người đàn bà cắt lễ nổi tiếng của xóm. Khi đưa được bà cắt lễ về tới bến sông trước nhà, tôi nghe tiếng em tôi: “Chế hai ơi, má làm em bớt nóng rồi!”, nước mắt lã chã, tôi nhào tới ôm đứa em bé bỏng vào lòng.

Khi em tôi dịu được cơn nóng, dưới bến sông lại có tiếng xuồng khua cùng tiếng gọi hớt hãi: “Chế Tư Mãnh ơi, mau mau cứu vợ em!”

Hôm chị em tôi về thăm má, nhắc lại chuyện má làm bà mụ năm xưa. Bà bà tần ngần rồi lần tay đếm đi đếm lại một hồi rồi nói: “Má đỡ đẻ chắc có có hơn 300 đứa. Có 7 đứa thò cái chân ra trước” 

Cây đàn măng đô lin ca má

Suốt năm tháng tuổi thơ, chị em chúng tôi ít khi được má đung đưa chiếc võng và hát ru như bao nhiêu người mẹ khác. Bù lại, tôi và các em được nghe má đánh đàn. Những bản nhạc chị em tôi ngấm từ tấm bé và vẫn nhớ như in dáng ngồi của má khi ôm đàn khi gãy dây đàn, có lúc má hát theo tiếng đàn, những khúc hát đi cùng năm tháng: Lá xanh, Bên bờ Hiền Lương, Nhạc rừng, Lên Ngàn, Bài ca hy vọng, Qua sông, Con thuyền không bến, Suối Mơ…

Cây đàn măng đô lin của má không rõ má có được từ lúc nào và tiếng đàn lúc sôi nổi giòn giã, lúc réo rắt thiết tha của má dường như là mặc nhiên từ má, của má, của người đàn bà mà sự kiên cường mạnh mẽ buộc phải có để vượt thoát nghịch cảnh, chu toàn việc riêng việc chung, bằng tất cả nghị lực của trái tim yêu thương và cho đi sự yêu thương, tất cả còn được gởi gắm vào tiếng đàn…

Dù là ngôi nhà vách lá trước kia và sau này là nhà vách tường, cây đàn măng đô lin của má vẫn treo trên vách, trên tường, trong tầm tay của má. Cái giá nhạc đơn sơ cũng đặt trước mặt má. Quyển sổ chép nhạc của má với nét chữ không thể lẫn với nét chữ của bất cứ ai. Nét chữ từ bàn tay vừa dịu dàng vừa rắn rỏi của bà mụ đỡ đẻ. 

Ba tôi vĩnh viễn ra đi đã gần 12 năm. Tất cả dường như vẫn không có gì thay đổi. Ngôi nhà nhỏ đơn sơ vẫn nằm trong khuôn viên rộng. Má cho sửa sang lại nhà. Chủ yếu là làm lại cái sân. Từ nền xi măng má cho lót gạch và cái sân cũng được mở rộng hơn để cho các cô các chị ở phường xóm đến tập văn nghệ, tập dưỡng sinh mỗi sớm mỗi chiều. Má cho sơn lại tường và cửa. Màu sơn tươi đến chói mắt. Và má cho gỡ rèm xuống, để lúc đôi chân không còn khỏe, khi ngồi trên giường ngủ bà vẫn có thể nhìn ngắm được những gương mặt thân quen cùng những hoạt động bền bỉ diễn ra trên sân nhà.

Suốt bao năm má sống với niềm vui tận tụy lo cho mọi người trong khả năng có được của mình. Đàn, hát, tổ chức và duy trì sinh hoạt tập dưỡng sinh, văn nghệ, bảo ban, chăm sóc nhau không chỉ về tinh thần.

Sau hai lần bệnh nặng, sức khỏe má đã không thể tham gia các hoạt động văn thể mỹ như trước đây. Tuy vậy, bốn giờ rưởi sáng, các cô các chị vẫn giữ nếp sinh hoạt lâu nay, vẫn tập những bài tập dưỡng sinh theo tiếng nhạc, theo bài hát từ “dàn âm thanh” đã mòn dấu tay của má, trên khoảng sân của má, và trong sự chăm chút lặng lẽ của má.

Mấy ngày chị em tôi về thăm má trôi qua thật nhanh. Má bước đi khó nhọc để ra cổng nhà tiễn các con lên xe.

Ngoái lại, má vẫn đứng nhìn theo chiếc xe chở các con về lại Sài Gòn, lòng tôi nhoi nhói niềm thương. Trên chuyến xe đầu năm, tôi bấm vào phím chữ điện thoại:

Tạm biệt mẹ, lại sống trong cách trở

Tự dối lòng không khoảng cách trái tim

Mẹ già yếu, chiếc xuồng con chở khẳm

Gió thổi liên hồi từ phía thời gian.



Má tôi và tôi với tấm ảnh chụp một biểu trưng của vở kịch “Ông Ba Gật” mà ba tôi, ông Trịnh Hồng Phương (bút danh: Nguyễn Hải Tùng, Hội viên Hội nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam) là tác giả - tác phẩm được truy lãnh Giải thưởng Văn học nghệ thuật Phan Ngọc Hiển của UBND tỉnh Cà Mau.


Thành phố Thủ Đức, ngày 4/1/2024

(Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm
Ngoảnh lại…
Tản văn của nhà văn Bích Ngân trện Người Đô Thị Tết Giáp Thìn 2024
Xem thêm