TIN TỨC

Nguyễn Bính ở phương Nam

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-03-25 17:00:05
mail facebook google pos stwis
2073 lượt xem

Đan Thanh

Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …

Trong số những nhà thơ nổi tiếng từ trước Cách mạng tháng Tám như Xuân Diệu (1916-1985), Huy Cận (1919-2005), Chế Lan Viên (1920-1989),…Nguyễn Bính được coi là một hồn thơ đặc biệt, có nét chung và nét riêng với những thi sĩ cùng thời. Có thể nói, tính trữ tình trong thơ mới Nguyễn Bính là điểm tương đồng ở ông với đa phần các nhà thơ tiền chiến. Nhưng đi sâu vào thi tứ và bút pháp, ta thấy Nguyễn Bính có nét gần gũi hơn với các nhà thơ : Đoàn Văn Cừ (1913-2014), Anh Thơ (1921-2005), Hồ Dzếnh (1916-1991),…Nguyễn Bính sinh ra trong một gia đình giáo dục. Cha là nhà giáo Nguyễn Đạo Bình, và mẹ là Bùi Thị Miện, con một nhà khá giả. Hai anh trai Nguyễn Bính là : Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường – nhà viết kịch), Nguyễn Ngọc Thụ và 4 người em cùng cha khác mẹ. Mẹ Nguyễn Bính chẳng may bị rắn độc cắn, mất lúc 24 tuổi khi Nguyễn Bính mới được 3 tháng : Còn tôi sống sót là may/ Mẹ hiền mất sớm, giời đày làm thơ (Nhà

tôi). Dì Giần và cậu ruột Bùi Trình Khiêm thương cháu, đem ba anh em Nguyễn Bính về nuôi, lo cho ăn học. Kém may, không được đi học ở trường, Nguyễn Bính chăm chỉ học ở nhà với cậu và cha, được cái là làm thơ hay từ bé, nên được cậu cưng và ngợi khen. Năm 1932, mới 13 tuổi, Bính đã đoạt giải nhất về thơ do Hội Phủ Giầy tặng nhân một cuộc thi Hát Trống quân đầu xuân : …Anh đố em này:/ Làng ta chưa vợ mấy người/ Chưa chồng mấy ả, em thời biết không/ Đố ai đi khắp tây đông/ Làm sao kiếm được tấm chồng như chúng anh đây/…Làm sao cho tỏ hơi đèn/ Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời ?…  Mới 15 tuổi, Bính phải lang thang tìm hướng lập thân, làm nghề bán báo và làm thơ.

 Nguyễn Bính thật sự bước chân vào làng thơ từ năm 1935. Qua sự giới thiệu của họa sĩ Nguyệt Hồ với ông Lê Tràng Kiều là chủ bút báo Tiểu thuyết Thứ Năm, bài thơ được đăng báo đầu tiên : Cô hái mơ, (Phạm Duy đã phổ nhạc), làm theo lối thơ mới 7 chữ, với tứ thơ tinh tế, hóm hỉnh, lời thơ giản dị, trong sáng đã cho thấy trước sự ấp ủ mầm xanh của một thi tài. Thời gian sau đó, tập thơ Tâm hồn tôi được giải khuyến khích của Tự lực Văn đoàn (1937). Khi được 22 tuổi, chỉ trong vòng 9 năm, Nguyễn Bính đã làm được khoảng 1.000 bài thơ. Năm 1940, trong đang ở Hà Nội cùng anh là nhà thơ Trúc Đường (1911-1983), và đã bắt đầu nổi tiếng với nhiều bài thơ tình với chủ đề phong phú trên báo chí, Nguyễn Bính bắt đầu nổi máu giang hồ, muốn hành phương Nam, định vào Huế tìm đề tài sáng tác. Ông anh thương em, đồng ý nhưng không có tiền, cho Nguyễn Bính chiếc máy ảnh và về quê bán dãy thềm đá xanh vốn là vật báu duy nhất của gia đình còn lại, rồi đưa tất cả số tiền cho Nguyễn Bính. Ở cố đô Huế, Nguyễn Bính làm thơ và gởi ra Hà Nội cho Trúc Đường đọc rồi đăng báo sau. Giai đoạn này, Nguyễn Bính đã có được các bài : Xuân tha hương và Oan nghiệt. Một thời gian sau, Nguyễn Bính rời mảnh đất thần kinh thơ mộng, trở về Hà Nội. Năm 1943, nhà thơ từ giã anh để vào Nam nhưng tin tức giữa hai anh em bắt đầu thưa dần. Bài thơ Hành phương Nam  của Nguyễn Bính được làm trong thời gian này : Đôi ta lưu lạc phương Nam này / Trải mấy mùa qua, én nhạn bay / Xuân đến khắp trời hoa rượu nở / Mà ta với ngươi buồn vậy thay /…Ta đi

nhưng biết về đâu chứ / Đã dấy phong yên lộng bốn trời / Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ /  Uống say mà gọi thế nhân ơi ! /… Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ / Ta với nhà ngươi cả tiếng cười / Dằn chén hất cao đầu cỏ dại / Hát rằng phương Nam ta với ngươi (Dakao, 1943). Năm 1947 ở Nam bộ, Nguyễn Bính có dịp gặp nhà thơ Đông Hồ (1906-1969), nữ thi sĩ Mộng Tuyết (1914-2007),: “Người khách thâm thấp. Phong trần hiện lên mớ tóc đen rậm, rối bồng dài tới mang tai. Bộ Âu phục cũ, nhầu nát làm cho người tăng thêm phần tiều tụy…” (Mộng Tuyết – Để nhớ Nguyễn Bính những ngày ghé bến Hà Tiên, Văn số 60, ra ngày 15/06/1966 tại Sài Gòn). Và  nhà thơ Kiên Giang (1929-2014) tại Rạch Giá. Nguyễn Bính ban ngày tá túc, ăn uống kham khổ tại nhà Kiên Giang, đêm khệ nệ mang nóp ra ngủ ở đình Nguyễn Trung Trực. Đây là không gian đặc biệt để hai nhà thơ đồng điệu và đồng chí ở hai đầu đất nước, cùng cảnh ngộ có dịp chân tình tâm sự, được xem là “những giây phút thần tiên của hai thằng điên” (Kiên Giang), để  nhả ngọc phun châu, và cùng nhau bày tỏ mọi góc khuất của cõi lòng cuộc đời hàn sĩ truân chuyên trong thời tao loạn : Có những giòng sông chảy rất mau / Nhớ chi nghĩa bến với duyên cầu / Lá vàng hoa dỏ trôi không kịp / Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau (Tặng Kiên Giang) // Từ độ về đây sống rất nghèo / Bạn bè chỉ có gió trăng theo / Những thằng bất nghĩa xin đừng đến / Hãy để thềm ta xanh sắc rêu. Trong  mùa mưa bão, ngày ngày, Nguyễn Bính làm bếp, Kiên Giang đi mua chịu rượu. Khi trở lại đến gần nhà, tác giả “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” đã nghe giọng Bính ngâm vang : Ở đây mưa ngày lại ngày / Nhà không mở ngõ mưa đầy tuần trăng (Hai câu trong một bài thơ Nguyễn Bính viết trong cơn say để tặng Kiên Giang). Cơ hội gặp gỡ hiếm có này đã tạo ra một giai thoại thú vị trong làng văn nghệ kháng chiến chống Pháp ở Tây Nam bộ.

Nhớ lại, cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công nhưng sau đó thực dân Pháp lật lọng, quay đầu trở lại với ý đồ xâm chiếm Nam bộ. Cùng với các văn nghệ sĩ yêu nước khác lúc bấy giờ như : Sơn Nam (1926-2008), Kiên Giang , Truy Phong (1925- 2005) … Nguyễn Bính vào chiến khu U Minh, hòa mình vào cuộc đấu tranh chống thực dân xâm lược của nhân dân.

Dù làm công tác chính trị là chủ yếu trong giai đoạn này, đôi lúc, với tâm hồn lãng mạn đa tình, Nguyễn Bính cũng để lộ nguyên hồn cốt của một nhà thơ tình với bao nỗi nhớ nhung diệu vợi về cảnh, về người … : Thấy dừa thì nhớ Bến Tre / Thấy sen lại nhớ đồng quê Tháp Mười / Thấy trăng lại nhớ đến người / Thấy sao lại nhớ đến lời thề xưa. Sớm đến với cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám, trong thời gian theo Việt Minh ở chiến khu (1947), Nguyễn Bính đã được nhà thơ Bảo Định Giang (1919-2005) gởi gắm cho cấp Chỉ huy Bộ Tư lệnh là ông Trần Văn Trà, nhờ quan tâm và đối đãi đàng hoàng, chăm sóc chu đáo tác giả “Lỡ bước sang ngang”. Qua giới thiệu của ông Lê Duẩn, Nguyễn Bính kết hôn với bà Nguyễn Lục Hà tức Nguyễn Hồng Châu, cán bộ Việt Minh và sinh được một con gái là Nguyễn Bính Hồng Cầu (nay là nhà thơ Hội Nhà Văn Việt nam). Tài hoa và đa tình, dù có gia đình nhưng chưa thấy mãn nguyện. Nhà thơ lãng tử vẫn coi gia đình như một trạm dừng chân, một bến đỗ tình yêu, để chuẩn bị hành tranh lên đường, đi kiếm tìm một bến tình mới. Sau đó không lâu, Nguyễn Bính lại kết hôn lần hai với bà Mai Thị Mới ở U Minh, có một con gái là Nguyễn Hương Mai. Và lần ba (không chính thức) với Phạm Vân Thanh rồi lần tư với bà Trần Thị Lai, ngoài những cuộc tình văn nghệ gió thoảng ở những nơi thi nhân đặt chân đến.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, thực dân Pháp rút hết quân về nước, theo Hiệp định Genève, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc cũng như bao cán bộ Việt Minh khác. Khi về Nam Hà, theo nhà văn Chu Văn (1922-1994), lúc bấy giờ : Nguyễn Bính tuổi gần năm mươi, gầy, đen, tóc cắt ngắn, như trọc, Nhà thơ ăn mặc thật giản dị : một sơ mi nâu, một quần ka ki bạc màu và đôi dép cao su. Toàn bộ hình thức ấy không gợi một vẻ gì là một nhà thơ lớn trước – sau này người ta gọi là “thi nhân tiền chiến”. Nhà thơ cười với đôi mắt nâu sắc sảo, ánh hơi lạnh và nụ cười khô, hàm răng ám khói thuốc lào. Nguyễn Bính về làm việc ở báo Văn nghệ rồi sau đó thay thế người anh – nhà thơ Trúc Đường- làm chủ bút tạp chí Trăm hoa, (bộ mới), một tờ báo tư nhân, đặt văn phòng tại số 15 Hai Bà Trưng, Hà Nội. Chính nhà văn Tô Hoài được phân công thuyết phục một tờ báo tư nhân, để có

tiếng nói chống lại những luận điệu ngang ngược của báo Nhân văn Giai phẩm. Dù có sự tiếp tay của tác giả Dế mèn phiêu lưu ký, báo Trăm hoa của Nguyễn Bính cũng bị phê bình và Nguyễn Bính tuyên bố đóng cửa với Tô Hoài sau đó.

Dựa vào toàn bộ sự nghiệp văn chương không nhỏ của Nguyễn Bính, ta có thể nói thi ca của nhà thơ phân làm hai dòng : trữ tình và cách mạng. Là nhà thơ lãng mạn có tài bẩm sinh, ngay từ thuở mới mười ba tuổi, lần đoạt giải thơ đầu tiên cho tới những bài thơ làm lúc cuối đời, Nguyễn Bính đã tỏ ra rất nhạy bén, tinh tế và sâu sắc trong việc cấu tứ, tìm vần. Trí tưởng tượng phong phú trời cho, kết hợp với cuộc đời lãng tử ngược xuôi đây đó, được coi là những chuyến đi thực tế tự do, đã làm nên cái chất liệu cảm hứng quý báu để nhà thơ dễ dàng sáng tác. Thơ tình yêu cũng như thơ cách mạng, Nguyễn Bính bao giờ cũng sử dụng ngôn ngữ dung dị, tự nhiên như ca dao, không phải tỉa gọt bay bướm, cầu kỳ đến mức độ khó hiểu. Do vậy, hầu như bài thơ nào, thi tập của Nguyễn Bính cũng đã đi sâu vào lòng người yêu thơ, và ai cũng chân thành cảm nhận được thơ ông với tấm lòng trân trọng. Nhiều nhà phê bình gọi ông là nhà thơ chân quê, thực ra đó chỉ là dựa vào tính cách bút pháp mộc mạc dễ hiểu, gần gũi với người bình dân, chứ nội dung thơ Nguyễn Bính không chỉ nói về nông thôn và người nhà quê. Chủ đề thi ca của Nguyễn Bính phong phú, đa dạng và sâu sắc.

Người mẹ là điểm tựa ấm áp đầu tiên không thể thiếu trong quảng đời thơ ấu.

Nguyễn Bính không may sớm mất mẹ từ lúc ba tháng, thuở còn nằm nôi và chưa dứt sữa, nên đa phần thơ Nguyễn Bính, bài nào cũng man mác một nỗi buồn trống trải, cô đơn, lúc nào cũng khao khát một tình thương : Người có đôi, ta rất một mình / Phong trần, ai dám mắt ai xanh / Đêm nay trăng rụng về bên ấy / Gác trọ còn nguyên gió thất tình (Một mình). Dường như luôn hiện hữu mặc cảm chia xa, đỗ vỡ và đoạn tuyệt, triền miên ở tác giả trong những vần thơ mang giai điệu u hoài xa vắng : Hoa đào từng cánh rơi như tưới / Xuống mặt sân rêu những giọt buồn / Như những tim tình tan vỡ ấy / Nhện già giăng mắc sợi tơ đơn / Nàng hãy cùng tôi đoạn một lời / Từ nay, nàng sẽ hết yêu tôi/ Từ nay ta sẽ xa nhau mãi / Ta sẽ quên nhau đến trọn đời… (Thôi nàng ở lại) // Tàu chạy hình như để chở buồn / Chở người đi nhớ, kẻ về thương / Nâng niu bao gót chân xinh đẹp / Tàu chạy đêm nay có lạc đường… (Chuyến tầu đêm). Xuân đến như một định luật là để báo hiệu niềm vui và hy vọng cho con người, nhưng trong thơ Nguyễn Bính chỉ hiện lên màu nhớ mong mòn mỏi của bức tranh lỗi thề, ly cách : Xuân đã đem mong nhớ trở về / Lòng cô lái ở bến sông kia / Cô hồi tưởng lại ba xuân trước / Trên bến cùng ai đã hẹn thề / Nhưng mà người khách tình quân ấy / Đi biệt không về với bến sông/ Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi /Mấy lần cô lái mỏi mòn trông…(Cô lái đò). Ngay cả những tập thơ của Nguyễn Bính, chưa đọc bài nào trong đó, tên của nó cũng gợi cho ta một nỗi ngậm ngùi diệu vợi : Mây Tần, Một nghìn cửa sổ, Hương cố nhân, Mười hai bến nước,… Bóng dáng những cô gái quê xinh đẹp, dịu hiền của làng thôn thanh bình yên ả, hiện lên trong thơ tác giả Lỡ bước sang ngang với ý nghĩa của sự mất mác nét quê hồn hậu, ngây thơ bởi cát bụi đô thành : Hoa chanh nở giữa vườn chanh / Thầy u mình với chúng mình chân quê / Hôm qua, em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều / Khăn nhung quần lãnh rộn ràng / Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi…(Chân quê). Bài thơ Chân quê được nhiều người coi như Tuyên ngôn của Trường phái thơ Chân quê  của Nguyễn Bính, như có khuynh hướng đối lập với dòng Thơ mới ảnh hưởng thơ Tây, đại diện bởi Xuân Diệu, Nguyễn Vỹ (1912-1971), Phan Khôi (1887-1958)… Tính cách nhà quê – nhưng không phải là quê mùa – đó còn hiển thị trong các bài thơ : Anh về quê cũ, Cây bàng cuối mùa thu, Cô hái mơ, Cô hàng xóm…, trong đó Nguyễn Bính vẫn sử dụng thể thơ mới 7 chữ sở trường giàu thanh điệu và đặc biệt lối thơ lục bát truyền thống ngọt ngào, điêu luyện và dễ nhớ, đọc qua một vài lần, ta có thể thuộc hết cả bài. Nét quê trong thơ Nguyễn Bính đã được nhà phê bình văn học Hoài Thanh khẳng định : Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê ẩn náu trong ta. Khi hoạt động ở chiến khu trong kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ (1946-1947), một thời gian lãnh trách nhiệm Phó Chủ tịch Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Rạch Giá. Ông ký tên thay mặt Ban Thường vụ, sao y các công văn. Kèm theo công văn, đôi khi cấp dưới lại nhận được một đôi bài thơ ký tên Nguyễn Bính. Nguyễn Bính vẫn làm thơ nhưng chủ yếu là để cổ vũ, phục vụ cho cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Nhà văn Sơn Nam kể lại : “Nguyễn Bính là nhà thơ yêu nước… Thời kháng Pháp, tôi đã gặp Nguyễn Bính uống rượu, uống trà, trao đổi tâm sự với nhau nhiều lần…Tại chợ Rạch Giá, anh vào chiến khu, khởi xướng việc thành lập Đoàn Văn hóa Cứu quốc và cho ra mắt Tập thơ yêu nước (gồm chừng 10 bài) sau khi vào chiến khu đôi tháng. Bài thơ yêu nước của Nguyễn Bính có đoạn : Những ai xứng đáng là người / Hãy hy sinh hết cho nòi giống ta / Hãy nên vì nước vì nhà / Coi thường thân sống mới là trượng phu. Bài chót tập thơ là Trận Cây Bàng :  Đánh ! Đánh ! Đánh ! Chỗ nào cũng đánh / …Nếu quân thù không đem binh tiếp viện / Thì quân ta quyết tiêu diệt quân thù ! / Nhưng thắng bại là lẽ thường chinh chiến / Trận Cây bàng lưu tiếng để muôn thu. Trong một bài thơ diễn tả nỗi đau buồn của người mẹ chờ con đã hy sinh cho tổ quốc : Con sống ngày nào, còn cứu nước / Còn đem xương máu để xây thành…/ Vì nước bỏ mình là bất tử / Xưa nay chinh chiến mấy ai về ? Những câu thơ của Nguyễn Bính lúc này đã là những vần thơ thép, mạnh mẽ và khảng khái, tác dụng như lời tuyên ngôn trước đồng bào, tinh thần hy sinh quyết tử vì sinh tồn của tổ quốc : Trái vú sữa thẳng căng niềm uất ức / Gai sầu riêng nhọn hoắt ý căm hờn / Cây cau già, ruột yếu cũng sôi lên / -“Thân lão đây ! Mau hãy chuốc làm tên” (Đây Nam bộ). Tại chiến khu, Nguyễn Bính phải làm việc trong một hoàn cảnh tối tăm, thiếu thốn điều kiện vật chất và thuốc men trong sự theo dõi, kiềm tỏa nghiêm ngặt cả đến việc chiêu dụ của kẻ thù : Ở chòi hẹp nhưng hồn trùm vũ trụ / Trái tim đau nhưng thương cả loài người / Đã nhiều hôm không thấy bóng mặt trời / Bởi làm việc liên miên và bí mật (Những người của ngày mai). Trong thời gian này, chính phủ tự trị thân Pháp của Nguyễn Văn Thinh có treo giải : Ai đưa được nhà thơ Nguyễn Bính dinh tê (về thành) sẽ được thưởng 1.000 đồng bạc Đông Dương. Nếu nhà thơ  tự vào cũng  được hưởng như thế –  Một kiểu kêu gọi chiêu hồi của chính phủ Cộng hòa từ sau năm 1954 – Nhiều thi sĩ bạn của Nguyễn Bính viết thư thuyết khách mời ông vào thành nhưng ông vẫn đinh ninh một lòng vì tổ quốc. Trong một bài thơ, ông đã khẳng định lập trường son sắt, thể hiện chí khí một sĩ phu yêu nước của mình : Mình không bỏ Sở sang Tề / Mình không là kẻ lỗi thề thì thôi. Trong kháng chiến 9 năm, Nguyễn Bính vẫn viết nhiều  nhưng tác phẩm đã chuyển sang chủ đề đấu tranh, thời sự, theo nhu cầu cần thiết của hoàn cảnh đất nước, dù in với phương tiện thô sơ, cũng phổ biến được rộng khắp Nam bộ : Ông lão mài gươm, Sóng biển cỏ (Trường ca Đồng Tháp Mười), Trong bóng cờ bay, Những dòng tâm huyết, Đây, Nam bộ… Sau khi tập kết ra Bắc, Nguyễn Bính vẫn sáng tác nhiều và hay hơn hết là bày tỏ được tình cảm thủy chung thương nhớ miền Nam đau thương từng cưu mang ông và quê hương miền Bắc đang thay da đổi thịt, quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Sự nghiệp văn chương rạng rỡ và lập trường đấu tranh cách mạng kiên định, vì quê hương và tồ quốc của nhà thơ, vẫn mãi mãi xứng đáng là tấm gương sáng cho mọi thế hệ cầm bút hôm nay và mai sau trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Song hành cùng Xuân Diệu, Trịnh Công Sơn (1939-2001), ... cảnh long đong của cuộc đời đã kết tinh nên mảnh đất phì nhiêu màu mỡ, để nuôi dưỡng nên một thi tài Nguyễn Bính. Thâm thúy như lời triết gia Đức Nietzsche (1844-1900) : “Những cây cao nhất, mạnh nhất thường mọc nơi vùng đất đá cheo leo khô cằn”. Trong bão giông nghiệt ngã của hoàn cảnh, cho đến hôm nay, thơ Nguyễn Bính vẫn được coi những đóa hoa thơm đầy hương sắc, ngọt ngào giai điệu ca dao, thấm đẫm tính nhân văn, còn đọng lại trong lòng nhiều người. Trong không gian thênh thang của những ngày xuân thanh bình thịnh vượng, ta hãy cùng nhau giở lại trang sách xưa, để thưởng thức những vần thơ tuyệt bút của nhà thơ chân đất tài hoa Nguyễn Bính.

                                              25.02.2024

                                                   Đ. T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm