TIN TỨC

Nguyễn Bính ở phương Nam

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-03-25 17:00:05
mail facebook google pos stwis
2175 lượt xem

Đan Thanh

Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …

Trong số những nhà thơ nổi tiếng từ trước Cách mạng tháng Tám như Xuân Diệu (1916-1985), Huy Cận (1919-2005), Chế Lan Viên (1920-1989),…Nguyễn Bính được coi là một hồn thơ đặc biệt, có nét chung và nét riêng với những thi sĩ cùng thời. Có thể nói, tính trữ tình trong thơ mới Nguyễn Bính là điểm tương đồng ở ông với đa phần các nhà thơ tiền chiến. Nhưng đi sâu vào thi tứ và bút pháp, ta thấy Nguyễn Bính có nét gần gũi hơn với các nhà thơ : Đoàn Văn Cừ (1913-2014), Anh Thơ (1921-2005), Hồ Dzếnh (1916-1991),…Nguyễn Bính sinh ra trong một gia đình giáo dục. Cha là nhà giáo Nguyễn Đạo Bình, và mẹ là Bùi Thị Miện, con một nhà khá giả. Hai anh trai Nguyễn Bính là : Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường – nhà viết kịch), Nguyễn Ngọc Thụ và 4 người em cùng cha khác mẹ. Mẹ Nguyễn Bính chẳng may bị rắn độc cắn, mất lúc 24 tuổi khi Nguyễn Bính mới được 3 tháng : Còn tôi sống sót là may/ Mẹ hiền mất sớm, giời đày làm thơ (Nhà

tôi). Dì Giần và cậu ruột Bùi Trình Khiêm thương cháu, đem ba anh em Nguyễn Bính về nuôi, lo cho ăn học. Kém may, không được đi học ở trường, Nguyễn Bính chăm chỉ học ở nhà với cậu và cha, được cái là làm thơ hay từ bé, nên được cậu cưng và ngợi khen. Năm 1932, mới 13 tuổi, Bính đã đoạt giải nhất về thơ do Hội Phủ Giầy tặng nhân một cuộc thi Hát Trống quân đầu xuân : …Anh đố em này:/ Làng ta chưa vợ mấy người/ Chưa chồng mấy ả, em thời biết không/ Đố ai đi khắp tây đông/ Làm sao kiếm được tấm chồng như chúng anh đây/…Làm sao cho tỏ hơi đèn/ Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời ?…  Mới 15 tuổi, Bính phải lang thang tìm hướng lập thân, làm nghề bán báo và làm thơ.

 Nguyễn Bính thật sự bước chân vào làng thơ từ năm 1935. Qua sự giới thiệu của họa sĩ Nguyệt Hồ với ông Lê Tràng Kiều là chủ bút báo Tiểu thuyết Thứ Năm, bài thơ được đăng báo đầu tiên : Cô hái mơ, (Phạm Duy đã phổ nhạc), làm theo lối thơ mới 7 chữ, với tứ thơ tinh tế, hóm hỉnh, lời thơ giản dị, trong sáng đã cho thấy trước sự ấp ủ mầm xanh của một thi tài. Thời gian sau đó, tập thơ Tâm hồn tôi được giải khuyến khích của Tự lực Văn đoàn (1937). Khi được 22 tuổi, chỉ trong vòng 9 năm, Nguyễn Bính đã làm được khoảng 1.000 bài thơ. Năm 1940, trong đang ở Hà Nội cùng anh là nhà thơ Trúc Đường (1911-1983), và đã bắt đầu nổi tiếng với nhiều bài thơ tình với chủ đề phong phú trên báo chí, Nguyễn Bính bắt đầu nổi máu giang hồ, muốn hành phương Nam, định vào Huế tìm đề tài sáng tác. Ông anh thương em, đồng ý nhưng không có tiền, cho Nguyễn Bính chiếc máy ảnh và về quê bán dãy thềm đá xanh vốn là vật báu duy nhất của gia đình còn lại, rồi đưa tất cả số tiền cho Nguyễn Bính. Ở cố đô Huế, Nguyễn Bính làm thơ và gởi ra Hà Nội cho Trúc Đường đọc rồi đăng báo sau. Giai đoạn này, Nguyễn Bính đã có được các bài : Xuân tha hương và Oan nghiệt. Một thời gian sau, Nguyễn Bính rời mảnh đất thần kinh thơ mộng, trở về Hà Nội. Năm 1943, nhà thơ từ giã anh để vào Nam nhưng tin tức giữa hai anh em bắt đầu thưa dần. Bài thơ Hành phương Nam  của Nguyễn Bính được làm trong thời gian này : Đôi ta lưu lạc phương Nam này / Trải mấy mùa qua, én nhạn bay / Xuân đến khắp trời hoa rượu nở / Mà ta với ngươi buồn vậy thay /…Ta đi

nhưng biết về đâu chứ / Đã dấy phong yên lộng bốn trời / Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ /  Uống say mà gọi thế nhân ơi ! /… Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ / Ta với nhà ngươi cả tiếng cười / Dằn chén hất cao đầu cỏ dại / Hát rằng phương Nam ta với ngươi (Dakao, 1943). Năm 1947 ở Nam bộ, Nguyễn Bính có dịp gặp nhà thơ Đông Hồ (1906-1969), nữ thi sĩ Mộng Tuyết (1914-2007),: “Người khách thâm thấp. Phong trần hiện lên mớ tóc đen rậm, rối bồng dài tới mang tai. Bộ Âu phục cũ, nhầu nát làm cho người tăng thêm phần tiều tụy…” (Mộng Tuyết – Để nhớ Nguyễn Bính những ngày ghé bến Hà Tiên, Văn số 60, ra ngày 15/06/1966 tại Sài Gòn). Và  nhà thơ Kiên Giang (1929-2014) tại Rạch Giá. Nguyễn Bính ban ngày tá túc, ăn uống kham khổ tại nhà Kiên Giang, đêm khệ nệ mang nóp ra ngủ ở đình Nguyễn Trung Trực. Đây là không gian đặc biệt để hai nhà thơ đồng điệu và đồng chí ở hai đầu đất nước, cùng cảnh ngộ có dịp chân tình tâm sự, được xem là “những giây phút thần tiên của hai thằng điên” (Kiên Giang), để  nhả ngọc phun châu, và cùng nhau bày tỏ mọi góc khuất của cõi lòng cuộc đời hàn sĩ truân chuyên trong thời tao loạn : Có những giòng sông chảy rất mau / Nhớ chi nghĩa bến với duyên cầu / Lá vàng hoa dỏ trôi không kịp / Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau (Tặng Kiên Giang) // Từ độ về đây sống rất nghèo / Bạn bè chỉ có gió trăng theo / Những thằng bất nghĩa xin đừng đến / Hãy để thềm ta xanh sắc rêu. Trong  mùa mưa bão, ngày ngày, Nguyễn Bính làm bếp, Kiên Giang đi mua chịu rượu. Khi trở lại đến gần nhà, tác giả “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” đã nghe giọng Bính ngâm vang : Ở đây mưa ngày lại ngày / Nhà không mở ngõ mưa đầy tuần trăng (Hai câu trong một bài thơ Nguyễn Bính viết trong cơn say để tặng Kiên Giang). Cơ hội gặp gỡ hiếm có này đã tạo ra một giai thoại thú vị trong làng văn nghệ kháng chiến chống Pháp ở Tây Nam bộ.

Nhớ lại, cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công nhưng sau đó thực dân Pháp lật lọng, quay đầu trở lại với ý đồ xâm chiếm Nam bộ. Cùng với các văn nghệ sĩ yêu nước khác lúc bấy giờ như : Sơn Nam (1926-2008), Kiên Giang , Truy Phong (1925- 2005) … Nguyễn Bính vào chiến khu U Minh, hòa mình vào cuộc đấu tranh chống thực dân xâm lược của nhân dân.

Dù làm công tác chính trị là chủ yếu trong giai đoạn này, đôi lúc, với tâm hồn lãng mạn đa tình, Nguyễn Bính cũng để lộ nguyên hồn cốt của một nhà thơ tình với bao nỗi nhớ nhung diệu vợi về cảnh, về người … : Thấy dừa thì nhớ Bến Tre / Thấy sen lại nhớ đồng quê Tháp Mười / Thấy trăng lại nhớ đến người / Thấy sao lại nhớ đến lời thề xưa. Sớm đến với cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám, trong thời gian theo Việt Minh ở chiến khu (1947), Nguyễn Bính đã được nhà thơ Bảo Định Giang (1919-2005) gởi gắm cho cấp Chỉ huy Bộ Tư lệnh là ông Trần Văn Trà, nhờ quan tâm và đối đãi đàng hoàng, chăm sóc chu đáo tác giả “Lỡ bước sang ngang”. Qua giới thiệu của ông Lê Duẩn, Nguyễn Bính kết hôn với bà Nguyễn Lục Hà tức Nguyễn Hồng Châu, cán bộ Việt Minh và sinh được một con gái là Nguyễn Bính Hồng Cầu (nay là nhà thơ Hội Nhà Văn Việt nam). Tài hoa và đa tình, dù có gia đình nhưng chưa thấy mãn nguyện. Nhà thơ lãng tử vẫn coi gia đình như một trạm dừng chân, một bến đỗ tình yêu, để chuẩn bị hành tranh lên đường, đi kiếm tìm một bến tình mới. Sau đó không lâu, Nguyễn Bính lại kết hôn lần hai với bà Mai Thị Mới ở U Minh, có một con gái là Nguyễn Hương Mai. Và lần ba (không chính thức) với Phạm Vân Thanh rồi lần tư với bà Trần Thị Lai, ngoài những cuộc tình văn nghệ gió thoảng ở những nơi thi nhân đặt chân đến.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, thực dân Pháp rút hết quân về nước, theo Hiệp định Genève, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc cũng như bao cán bộ Việt Minh khác. Khi về Nam Hà, theo nhà văn Chu Văn (1922-1994), lúc bấy giờ : Nguyễn Bính tuổi gần năm mươi, gầy, đen, tóc cắt ngắn, như trọc, Nhà thơ ăn mặc thật giản dị : một sơ mi nâu, một quần ka ki bạc màu và đôi dép cao su. Toàn bộ hình thức ấy không gợi một vẻ gì là một nhà thơ lớn trước – sau này người ta gọi là “thi nhân tiền chiến”. Nhà thơ cười với đôi mắt nâu sắc sảo, ánh hơi lạnh và nụ cười khô, hàm răng ám khói thuốc lào. Nguyễn Bính về làm việc ở báo Văn nghệ rồi sau đó thay thế người anh – nhà thơ Trúc Đường- làm chủ bút tạp chí Trăm hoa, (bộ mới), một tờ báo tư nhân, đặt văn phòng tại số 15 Hai Bà Trưng, Hà Nội. Chính nhà văn Tô Hoài được phân công thuyết phục một tờ báo tư nhân, để có

tiếng nói chống lại những luận điệu ngang ngược của báo Nhân văn Giai phẩm. Dù có sự tiếp tay của tác giả Dế mèn phiêu lưu ký, báo Trăm hoa của Nguyễn Bính cũng bị phê bình và Nguyễn Bính tuyên bố đóng cửa với Tô Hoài sau đó.

Dựa vào toàn bộ sự nghiệp văn chương không nhỏ của Nguyễn Bính, ta có thể nói thi ca của nhà thơ phân làm hai dòng : trữ tình và cách mạng. Là nhà thơ lãng mạn có tài bẩm sinh, ngay từ thuở mới mười ba tuổi, lần đoạt giải thơ đầu tiên cho tới những bài thơ làm lúc cuối đời, Nguyễn Bính đã tỏ ra rất nhạy bén, tinh tế và sâu sắc trong việc cấu tứ, tìm vần. Trí tưởng tượng phong phú trời cho, kết hợp với cuộc đời lãng tử ngược xuôi đây đó, được coi là những chuyến đi thực tế tự do, đã làm nên cái chất liệu cảm hứng quý báu để nhà thơ dễ dàng sáng tác. Thơ tình yêu cũng như thơ cách mạng, Nguyễn Bính bao giờ cũng sử dụng ngôn ngữ dung dị, tự nhiên như ca dao, không phải tỉa gọt bay bướm, cầu kỳ đến mức độ khó hiểu. Do vậy, hầu như bài thơ nào, thi tập của Nguyễn Bính cũng đã đi sâu vào lòng người yêu thơ, và ai cũng chân thành cảm nhận được thơ ông với tấm lòng trân trọng. Nhiều nhà phê bình gọi ông là nhà thơ chân quê, thực ra đó chỉ là dựa vào tính cách bút pháp mộc mạc dễ hiểu, gần gũi với người bình dân, chứ nội dung thơ Nguyễn Bính không chỉ nói về nông thôn và người nhà quê. Chủ đề thi ca của Nguyễn Bính phong phú, đa dạng và sâu sắc.

Người mẹ là điểm tựa ấm áp đầu tiên không thể thiếu trong quảng đời thơ ấu.

Nguyễn Bính không may sớm mất mẹ từ lúc ba tháng, thuở còn nằm nôi và chưa dứt sữa, nên đa phần thơ Nguyễn Bính, bài nào cũng man mác một nỗi buồn trống trải, cô đơn, lúc nào cũng khao khát một tình thương : Người có đôi, ta rất một mình / Phong trần, ai dám mắt ai xanh / Đêm nay trăng rụng về bên ấy / Gác trọ còn nguyên gió thất tình (Một mình). Dường như luôn hiện hữu mặc cảm chia xa, đỗ vỡ và đoạn tuyệt, triền miên ở tác giả trong những vần thơ mang giai điệu u hoài xa vắng : Hoa đào từng cánh rơi như tưới / Xuống mặt sân rêu những giọt buồn / Như những tim tình tan vỡ ấy / Nhện già giăng mắc sợi tơ đơn / Nàng hãy cùng tôi đoạn một lời / Từ nay, nàng sẽ hết yêu tôi/ Từ nay ta sẽ xa nhau mãi / Ta sẽ quên nhau đến trọn đời… (Thôi nàng ở lại) // Tàu chạy hình như để chở buồn / Chở người đi nhớ, kẻ về thương / Nâng niu bao gót chân xinh đẹp / Tàu chạy đêm nay có lạc đường… (Chuyến tầu đêm). Xuân đến như một định luật là để báo hiệu niềm vui và hy vọng cho con người, nhưng trong thơ Nguyễn Bính chỉ hiện lên màu nhớ mong mòn mỏi của bức tranh lỗi thề, ly cách : Xuân đã đem mong nhớ trở về / Lòng cô lái ở bến sông kia / Cô hồi tưởng lại ba xuân trước / Trên bến cùng ai đã hẹn thề / Nhưng mà người khách tình quân ấy / Đi biệt không về với bến sông/ Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi /Mấy lần cô lái mỏi mòn trông…(Cô lái đò). Ngay cả những tập thơ của Nguyễn Bính, chưa đọc bài nào trong đó, tên của nó cũng gợi cho ta một nỗi ngậm ngùi diệu vợi : Mây Tần, Một nghìn cửa sổ, Hương cố nhân, Mười hai bến nước,… Bóng dáng những cô gái quê xinh đẹp, dịu hiền của làng thôn thanh bình yên ả, hiện lên trong thơ tác giả Lỡ bước sang ngang với ý nghĩa của sự mất mác nét quê hồn hậu, ngây thơ bởi cát bụi đô thành : Hoa chanh nở giữa vườn chanh / Thầy u mình với chúng mình chân quê / Hôm qua, em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều / Khăn nhung quần lãnh rộn ràng / Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi…(Chân quê). Bài thơ Chân quê được nhiều người coi như Tuyên ngôn của Trường phái thơ Chân quê  của Nguyễn Bính, như có khuynh hướng đối lập với dòng Thơ mới ảnh hưởng thơ Tây, đại diện bởi Xuân Diệu, Nguyễn Vỹ (1912-1971), Phan Khôi (1887-1958)… Tính cách nhà quê – nhưng không phải là quê mùa – đó còn hiển thị trong các bài thơ : Anh về quê cũ, Cây bàng cuối mùa thu, Cô hái mơ, Cô hàng xóm…, trong đó Nguyễn Bính vẫn sử dụng thể thơ mới 7 chữ sở trường giàu thanh điệu và đặc biệt lối thơ lục bát truyền thống ngọt ngào, điêu luyện và dễ nhớ, đọc qua một vài lần, ta có thể thuộc hết cả bài. Nét quê trong thơ Nguyễn Bính đã được nhà phê bình văn học Hoài Thanh khẳng định : Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê ẩn náu trong ta. Khi hoạt động ở chiến khu trong kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ (1946-1947), một thời gian lãnh trách nhiệm Phó Chủ tịch Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Rạch Giá. Ông ký tên thay mặt Ban Thường vụ, sao y các công văn. Kèm theo công văn, đôi khi cấp dưới lại nhận được một đôi bài thơ ký tên Nguyễn Bính. Nguyễn Bính vẫn làm thơ nhưng chủ yếu là để cổ vũ, phục vụ cho cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Nhà văn Sơn Nam kể lại : “Nguyễn Bính là nhà thơ yêu nước… Thời kháng Pháp, tôi đã gặp Nguyễn Bính uống rượu, uống trà, trao đổi tâm sự với nhau nhiều lần…Tại chợ Rạch Giá, anh vào chiến khu, khởi xướng việc thành lập Đoàn Văn hóa Cứu quốc và cho ra mắt Tập thơ yêu nước (gồm chừng 10 bài) sau khi vào chiến khu đôi tháng. Bài thơ yêu nước của Nguyễn Bính có đoạn : Những ai xứng đáng là người / Hãy hy sinh hết cho nòi giống ta / Hãy nên vì nước vì nhà / Coi thường thân sống mới là trượng phu. Bài chót tập thơ là Trận Cây Bàng :  Đánh ! Đánh ! Đánh ! Chỗ nào cũng đánh / …Nếu quân thù không đem binh tiếp viện / Thì quân ta quyết tiêu diệt quân thù ! / Nhưng thắng bại là lẽ thường chinh chiến / Trận Cây bàng lưu tiếng để muôn thu. Trong một bài thơ diễn tả nỗi đau buồn của người mẹ chờ con đã hy sinh cho tổ quốc : Con sống ngày nào, còn cứu nước / Còn đem xương máu để xây thành…/ Vì nước bỏ mình là bất tử / Xưa nay chinh chiến mấy ai về ? Những câu thơ của Nguyễn Bính lúc này đã là những vần thơ thép, mạnh mẽ và khảng khái, tác dụng như lời tuyên ngôn trước đồng bào, tinh thần hy sinh quyết tử vì sinh tồn của tổ quốc : Trái vú sữa thẳng căng niềm uất ức / Gai sầu riêng nhọn hoắt ý căm hờn / Cây cau già, ruột yếu cũng sôi lên / -“Thân lão đây ! Mau hãy chuốc làm tên” (Đây Nam bộ). Tại chiến khu, Nguyễn Bính phải làm việc trong một hoàn cảnh tối tăm, thiếu thốn điều kiện vật chất và thuốc men trong sự theo dõi, kiềm tỏa nghiêm ngặt cả đến việc chiêu dụ của kẻ thù : Ở chòi hẹp nhưng hồn trùm vũ trụ / Trái tim đau nhưng thương cả loài người / Đã nhiều hôm không thấy bóng mặt trời / Bởi làm việc liên miên và bí mật (Những người của ngày mai). Trong thời gian này, chính phủ tự trị thân Pháp của Nguyễn Văn Thinh có treo giải : Ai đưa được nhà thơ Nguyễn Bính dinh tê (về thành) sẽ được thưởng 1.000 đồng bạc Đông Dương. Nếu nhà thơ  tự vào cũng  được hưởng như thế –  Một kiểu kêu gọi chiêu hồi của chính phủ Cộng hòa từ sau năm 1954 – Nhiều thi sĩ bạn của Nguyễn Bính viết thư thuyết khách mời ông vào thành nhưng ông vẫn đinh ninh một lòng vì tổ quốc. Trong một bài thơ, ông đã khẳng định lập trường son sắt, thể hiện chí khí một sĩ phu yêu nước của mình : Mình không bỏ Sở sang Tề / Mình không là kẻ lỗi thề thì thôi. Trong kháng chiến 9 năm, Nguyễn Bính vẫn viết nhiều  nhưng tác phẩm đã chuyển sang chủ đề đấu tranh, thời sự, theo nhu cầu cần thiết của hoàn cảnh đất nước, dù in với phương tiện thô sơ, cũng phổ biến được rộng khắp Nam bộ : Ông lão mài gươm, Sóng biển cỏ (Trường ca Đồng Tháp Mười), Trong bóng cờ bay, Những dòng tâm huyết, Đây, Nam bộ… Sau khi tập kết ra Bắc, Nguyễn Bính vẫn sáng tác nhiều và hay hơn hết là bày tỏ được tình cảm thủy chung thương nhớ miền Nam đau thương từng cưu mang ông và quê hương miền Bắc đang thay da đổi thịt, quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Sự nghiệp văn chương rạng rỡ và lập trường đấu tranh cách mạng kiên định, vì quê hương và tồ quốc của nhà thơ, vẫn mãi mãi xứng đáng là tấm gương sáng cho mọi thế hệ cầm bút hôm nay và mai sau trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Song hành cùng Xuân Diệu, Trịnh Công Sơn (1939-2001), ... cảnh long đong của cuộc đời đã kết tinh nên mảnh đất phì nhiêu màu mỡ, để nuôi dưỡng nên một thi tài Nguyễn Bính. Thâm thúy như lời triết gia Đức Nietzsche (1844-1900) : “Những cây cao nhất, mạnh nhất thường mọc nơi vùng đất đá cheo leo khô cằn”. Trong bão giông nghiệt ngã của hoàn cảnh, cho đến hôm nay, thơ Nguyễn Bính vẫn được coi những đóa hoa thơm đầy hương sắc, ngọt ngào giai điệu ca dao, thấm đẫm tính nhân văn, còn đọng lại trong lòng nhiều người. Trong không gian thênh thang của những ngày xuân thanh bình thịnh vượng, ta hãy cùng nhau giở lại trang sách xưa, để thưởng thức những vần thơ tuyệt bút của nhà thơ chân đất tài hoa Nguyễn Bính.

                                              25.02.2024

                                                   Đ. T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm