TIN TỨC
  • Bút ký - Tạp văn
  • Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn

Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-02-13 11:12:38
mail facebook google pos stwis
2103 lượt xem

Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.

Tác giả trẻ Quốc Tuấn

Bởi vì nét chữ thể hiện cốt cách/ phẩm giá con người, cho nên việc trọng con chữ, kính thầy yêu bạn, chăm lo đèn sách đã trở thành một nếp sống, nếp nghĩ truyền thừa văn minh mà ông cha đã xây dựng thành một giá trị truyền thống cao đẹp. “Cơn sốt giảng đọc kinh điển”, “cơn sốt Nho giáo” vang bóng một thời đã khởi dậy sự thịnh thế của văn hóa chữ nghĩa tồn tại kịch liệt và hưng thịnh từ ngàn năm.

Từ cái ý thức sự học, sự đọc, nắn rèn con chữ  mà những “học gia chân chính” cổ xưa đều là Thánh hiền. Khi bước chân vào nghiệp học là họ đã đau đáu cho một con đường, một lý tưởng, một mục đích vươn tới: “văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”.

Cao Bá Quát- hình ảnh điển mẫu của Nho giáo Việt Nam. Danh đồ (đường công danh) của Cao Bá Quát được biểu dương thông qua biệt tài viết chữ mà chúng ta được biết qua tác phẩm “Chữ người tử tù” của tác giả Nguyễn Tuân. Huấn Cao chính là hình tượng nghệ thuật xây dựng trên nguyên mẫu bậc danh nho họ Cao. Gương sáng muôn đời về tài năng đức độ của ông được thể hiện qua thơ phú, sự học và từng nét chữ được viết ra: “Đạp hướng danh đồ bất điệu đầu/ Ngã vô hành dã, diệc vô lưu” (Ngẩng cao đầu bước trên đường danh/ Ta không làm việc gì và cũng không có gì phải lưu luyến). Con người ông trọng khí tiết, ưa điều đạo đức và coi khinh tài phú, danh vọng. Vừa mở cửa quan đã lao vào cửa ngục, đó là số phận của Cao Bá Quát. Bởi vì ông là đồ nho khí khái, luôn ưu thời mẫn thế và không chịu được sự nhiễu nhương của đám “hôn quân dung chúa” lãnh đạo triều sự đã làm vận nước lao đao, dân tình khốn khổ. Cảnh cho chữ đắt giá mà Nguyễn Tuân đã khắc họa trong tác phẩm đã thể hiện khí chất của một danh nhân khi đối diện với cái đẹp, lương tri và hiện thực nghiệt ngã.

Chuyện xưa tích cũ để lại trong chúng ta những bài học lớn, bài học về cốt cách làm người, về đạo đức luân lý ở đời. Bàn về nét chữ, nết người, suy rộng ra là bàn về phẩm chất của con người. Những bậc đại trí xưa đáng được trọng xưng muôn đời, bởi lẽ họ đã sống một cuộc đời chuẩn mực, xem danh lợi là thư phù hư ảo để rồi chỉ hào hứng với việc nêu cao nhân cách ngời sáng của mình trước cám dỗ của lợi lộc.

Bậc chính danh xưa có nên nhân cách đó là từ cái nghiêm cẩn của sự nắn chỉnh “nết chữ” ngay từ nhỏ. Khuôn thước điển phạm đã đúc tạc nên những anh tài dùng lương tâm để đối đãi với đời. Tất cả xuất phát từ việc trọng chữ nghĩa, yêu kinh sách, tôn vinh giá trị của cha ông truyền thừa. Từng con chữ được viết ra từ tim óc, từ tấm chân tình uyên nguyên, sâu xa của bản thể. Sự ý thức triệt để nghiệp học là để lo cho muôn dân hạnh phúc và cái đẹp gắn thiết với điều lương thiện mới tạo nên sự vinh diệu đỉnh cao. Từ đó nét chữ đã thể hiện đươc tấm lòng ân nghĩa, sự nhân đức tài trí của con người.

Vậy còn người nay thì sao? Đã bao giờ chúng ta ý thức được rằng “nét chữ- nết người” hay chưa?

Cuộc sống số hóa, tất cả đều nhanh chóng “gõ móng” như linh dương thoăn thoắt trên bàn phím mà nhiều lúc “tay nhanh hơn não”. Tốc độ sống theo sự lập trình của máy móc đã khiến chúng ta thiếu đi sự “cẩn trọng”, quên đi những nét chữ mềm mại, trau truốt trên giấy thanh tân. Thế hệ trẻ ngày càng sống “ăn xổi ở thì”, ưa thích sự nhanh chóng, vội vã và không còn giữ đạo trung dung như người xưa. Việc viết, trình bày, nắn chỉnh từng con chữ trên trang giấy hầu như không còn được ý thức. Thật nuối tiếc cho những “cái đẹp cổ điển” trước dòng tiến hóa…

                                                                          Q.T

                                          

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm
Trở lại xứ sở Chùa Vàng
Ba thập kỷ sau, tôi trở lại Thái Lan không chỉ với tư cách du khách, mà còn là người kết nối văn hóa giữa hai dân tộc Việt – Thái, vốn có nhiều “mẫu số chung” về phong tục, tập quán và tôn giáo.
Xem thêm
Chuyện tình trắc trở của hai nghệ sĩ nổi tiếng quê Quảng Trị
Nhân đọc tập bút ký: “Đời như tiểu thuyết” của Trương Đức Minh Tứ
Xem thêm