TIN TỨC

Nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng và ánh sáng thi ca trong bóng tối số phận

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-05-08 16:24:48
mail facebook google pos stwis
144 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng có thể xem như một trường hợp độc đáo của đời sống văn chương Việt Nam. Đã hơn 8 thập niên sống trong bóng tối, ông vẫn luôn lạc quan với đời, với thơ.


Nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng qua nét vẽ Trần Trưởng

Chưa từng được đi học, nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng sắp xếp vần điệu trong tâm tưởng, rồi nhờ bạn bè và người thân chép lại. Vì vậy, không thể nói khác hơn, mỗi bài thơ của nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng luôn hiện diện hai văn bản, một văn bản khát vọng thi ca và một văn bản nghị lực cuộc sống.

Vì hoàn cảnh cá nhân, nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng không có cơ hội cưới vợ sinh con. Ông nương tựa gia đình người em trai cư ngụ ở thôn Đông Phước, xã Hòa An, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Ông cho biết bắt đầu làm thơ từ năm 30 tuổi, với tâm sự “em đứng gần chờ nghe tôi hát, dòng sông nào trôi trong ca dao”.

Nguyên cớ đến với thi ca, được ông thổ lộ dí dỏm: “Hồi 30 tuổi, hình như tui cũng đẹp trai. Có cô gái nhà đối diện ngày nào cũng sang đề nghị tui hát nhạc tiền chiến cho cô ấy nghe. Mỗi lần tui hát xong, cô ấy gọt ổi hay cắt xoài cho tui ăn. Ấm áp lắm, ngọt ngào lắm. Được vài năm, cô ấy đi lấy chồng. Tui thất tình và khởi sự làm thơ”.


Hai nhà thơ khiếm thị ở Phú Yên: Huỳnh Duy Siêng (sinh năm 1937) và Lê Đình Hòa (sinh năm 1963)

Mối tình đầu lỡ làng ấy, đã lưu dấu trong thơ Huỳnh Duy Siêng nhiều cung bậc ngổn ngang: “Gặp trong mơ em vẫn còn trẻ quá/ Trái thị nghèo thường có một nàng tiên/ Ta chờ em tuổi chưa già tóc bạc/ Nghe tâm tư lắng đọng chút hồn nhiên/ Hương cỏ thơm như tình em sót lại/ Mặt trời lên ta ngơ ngác đi tìm/ Chạy giữa trần gian làm người si dại/ Trên những cánh đồng đầy dấu chân chim/ Sợ cô đơn ta sợ hình bóng lạ/ Đứng bên khe nghe vượn hú gọi bầy/ Em tan biến vào núi rừng hoang dã/ Ta gửi người trong sương bạc hoàng hôn”.

Nếu đừng chú ý đến đôi mắt, thì gặp gỡ nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng, không ai nghĩ ông là một người khuyết tật. Bởi lẽ, ở ông không chỉ không có sự già nua, mà luôn lan tỏa năng lượng rất tích cực. Ông chia sẻ: “Cả đời tui chỉ khóc một lần. Đó là ngày má tui hấp hối. Bà gọi tui đến bên giường bệnh, thều thào: “Má sinh con mà không thể san sẻ bất hạnh của con. Con để tang má đã là đại hiếu rồi. Con không phải đưa má ra nghĩa trang đâu. Con bị mù, má miễn cho con”. Tui đã khóc ngon lành như trẻ thơ”.

Năm ba tuổi, Huỳnh Duy Siêng bị bệnh đậu mùa. Cái vùng đất Tuy Hòa ngày ấy chỉ là một thị trấn nhỏ, dân cư thưa thớt, thầy thuốc càng hiếm. Dù gia đình đã cố sức chạy chữa, biến chứng của bệnh đậu mùa đã cướp đi đôi mắt của ông. “Hơn 80 năm qua, tui sống trong bóng tối triền miên”, ông Huỳnh Duy Siêng nhẹ nhàng thổ lộ.

Vào giai đoạn nào trong đời, thì ông mới thấy sự thiệt thòi của mình? Không chút đắn đo, Huỳnh Duy Siêng trả lời mạch lạc: “Tui còn nhớ rất rõ, đó là lúc mấy đứa hàng xóm sang chơi nhà tui khoe rằng, ngày mai tụi nó sẽ đi học. Năm ấy 7 tuổi, tui nói với má tui: “Sao con không được đến lớp?”. Má tui không nói gì, bà ôm tui thật chặt vào lòng. Tui lặp lại câu hỏi ấy đến lần thứ ba, thì nghe nước mắt rơi lộp độp trên mặt tui. Má tui khóc. Những giọt nước mắt nóng hổi đã dạy tui rằng, cái sự mù của tui chính là vết thương khủng khiếp đối với má tui. Từ đó, tui không hỏi nữa. Tui sợ má tui buồn”.

Gia đình không đến nỗi túng thiếu, nhưng thập niên 40 của thế kỷ 20 thì chữ nổi chưa du nhập đến xứ sở “hoa vàng cỏ xanh” mà Huỳnh Duy Siêng sinh sống, nên ông chấp nhận mù chữ.

Tuy nhiên, Huỳnh Duy Siêng vẫn có phương pháp học của ông. Mỗi ngày ông lén trốn khỏi nhà, lò dò đi theo tụi bạn đến trường tiểu học. Bạn bè ngồi trong lớp, còn ông ngồi ngoài hành lang. Dù nghe tiếng được tiếng mất, bài văn vần nào lọt vào tai thì ông thuộc ngay lập tức. Khốn nỗi, những ngày học chui kéo dài không được bao lâu. Một hôm ông vừa dò dẫm đến trường thì nước lụt tràn về. Học trò sáng mắt di tản hết, còn ông quờ quạng không biết chạy đường nào. Ông ôm được một gốc cây, và cứ đứng yên giữa mưa gió cho đến khi không biết gì nữa.

Huỳnh Duy Siêng hồi tưởng: “Tui tỉnh lại lúc nghe tiếng kêu thất thanh của má tui. Sau cả buổi tìm kiếm, má tui phát hiện tui đã cứng đờ bên gốc cây. Bế tui về nhà, thấy toàn thân tui lạnh ngắt, má tui tưởng tui đã chết nên gào thảm thiết. Cái câu than trách gần như một sự vô vọng của má tui khiến tui không dám mạo hiểm tự ý ra khỏi nhà nữa. Tui nghĩ rằng, nếu tui gặp tai nạn gì chắc má tui không sống nổi”.

Sau cú thoát hiểm trong gang tấc kia, Huỳnh Duy Siêng không lén đến trường nghe giảng bài nữa. Huỳnh Duy Siêng quanh quẩn trong sân nhà, khỏe thì trèo cây, mệt thì nghe đài. Mỗi chiều, khi cha tan sở, Huỳnh Duy Siêng nài nỉ cha dắt xuống biển Tuy Hòa để tập bơi. Cơn lụt dạo nào đã giúp ông biết được, người mù không biết bơi sẽ không xoay sở được khi gặp sóng nước. Chỉ mất vài tháng, Huỳnh Duy Siêng bơi giỏi hơn tất cả lũ trẻ láng giềng.

Cũng nhờ sớm ý thức tập bơi mà mấy chục năm sau ông đã có dịp chiến thắng thủy thần một cách ngoạn mục. Năm 1993, Phú Yên bị một trận lụt lịch sử. Đúng hôm ấy, Huỳnh Duy Siêng có hẹn đi đọc thơ giao lưu bên kia sông Chùa. Khi những vần điệu du dương kết thúc, thì mấy chục thi sĩ cấp tỉnh lẫn cấp huyện đều hồn xiêu phách tán vì nước lụt giăng kín bốn bề. Người sáng mắt hoảng hốt tìm đường tháo chạy, riêng Huỳnh Duy Siêng vẫn bình tĩnh. Ông bàn bạc với những người đi cùng và nhẩm tính, nếu đi đường cũ về thì phải vượt qua 10 cây số mà đường xá đã bị nước phủ trắng xóa rồi, cứ bơi cắt ngang sông Chùa sẽ đến nhà nhanh nhất.

Sau khi xác định chỉ cần bơi thẳng hướng sẽ là bờ bên kia của thị xã Tuy Hòa, nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng lao mình xuống nước và bơi một mạch. Những người còn lại ngạc nhiên đến mức tái mặt, nhưng cũng tăm tắp làm theo Huỳnh Duy Siêng. Kết quả, nhà thơ mù năm ấy 56 tuổi Huỳnh Duy Siêng đã dẫn đám thi hữu trẻ về đến nơi an toàn.

Khi nỗi đau về đứa con đầu lòng bị mù dần tan biến, mẹ của Huỳnh Duy Siêng sinh thêm hai người con nữa. Vậy là Huỳnh Duy Siêng có một đứa em trai và một đứa em gái. Những buổi tối, khi hai đứa em mở vở ra học, thì Huỳnh Duy Siêng cũng mở đài ra học.

Nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng biết cách phát huy thính giác để bù đắp cho sự thiệt thòi của mình. Không thể nhìn, thì ông suy nghiệm mọi vật bằng kỹ thuật “nghe”. Trong thơ ông có lúc “Nghe xuân hoa nở phân vân tình người”, có lúc “Nghe nỗi nhớ dài thêm/ Nghe lá chiều gió lật” và cũng có lúc “Mây trời bay ngơ ngác/ Cành cao rơi tiếng chim/ Nghe lòng khơi biển động/ Bên đường bóng chiều nghiêng/ Mơ màng theo khói thuốc/ Tôi hình dung tóc em”.

Năm 2012, nhà thơ khiếm thị Huỳnh Duy Siêng in tập thơ “Hết mùa thu chưa” giúp công chúng nhận ra một sự thật, khi sáng tạo thi ca vượt qua bóng tối học vấn và bóng tối định mệnh, thì mỗi bài thơ của Huỳnh Duy Siêng có giá trị bằng hai bài thơ. Bởi lẽ chính khao khát sống, rung cảm sống của Huỳnh Duy Siêng đã là một bài thơ rồi! Thơ Huỳnh Duy Siêng thăm thẳm hoài vọng và ưu tư: “Cơn mưa chiều chợt đến/ Như một đêm chuyện dài/ Lật nhàu trang nhật ký/ Tháng ngày ta nhớ ai/ Dòng sông đời bão táp/ Xô vỡ tình yêu em/ Dẫu đường đời băng giá/ Ta vẫn làm cánh chim”.

Hiện tại, sức khỏe nhà thơ Huỳnh Duy Siêng đã giảm sút rất nhiều ở tuổi 87. Những bài thơ gần đây của ông có niềm thảng thốt “đã nghe có tiếng trời cao gọi/ đã nghe tơ chùng dưới gót chân”, nhưng ông vẫn bám lấy ánh sáng thi ca để nuôi dưỡng tình yêu cuộc sống “ta như một cánh bèo chìm/ lặn vào non nước đi tìm câu thơ”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đan Thanh - nghệ sĩ kết nối thi ca và hội họa
Với hiểu biết khiêm tốn của một nhà giáo hâm mộ văn học nghệ thuật, tôi được biết thầy giáo - nhà văn Nguyễn Thanh. Thầy Nguyễn Thanh tên thật là Nguyễn Tấn Thành sinh ra tại xã Tân Quới, quận Bình Minh, Cần Thơ (nay thuộc Vĩnh Long). Khi làm văn nghệ, thầy Nguyễn Thanh còn dùng những bút danh khác để viết cho nhiều thể loại bài khác nhau : Thanh Huyền, Ngũ Lang, Đan Thanh, Phương Đình, Tương Như, Diễm Thi, Minh Khuê, Minh Văn, Lan Đình, Chàng Văn… Thầy tốt nghiệp Đại học Sư phạm - Cử nhân Văn khoa và đã qua 3 năm chưong trình Cao học Văn chương và Ngoại ngữ tại Đại học Văn khoa Sài Gòn (1975).
Xem thêm
Giao hưởng Điện Biên – thành tựu mới của nhà thơ Hữu Thỉnh
Chiến thắng Điện Biên là một chiến thắng vĩ đại của chúng ta “Lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu” (Tố Hữu). Chiến thắng đó làm rạng danh nước Việt trên thế giới. “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thằng bay trên nóc hầm tướng Đờ cát, ngày 12 tháng 5 Bác Hồ đã có bài thơ dài đăng trên báo Nhân Dân : “Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ”. Rồi sau đó Tố Hữu mới có bài thơ nổi tiếng “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Điện Biên còn được các nhà thơ, nhà văn Việt Nam nhắc đến nhiều trong các bài thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết. Điện Biên cũng được nhắc đến trong các cuốn sách của đại tướng Võ Nguyên Giáp và các tướng lĩnh, nhà báo của ta và phương Tây.
Xem thêm
“Chia lửa” với chiến dịch Điện Biên Phủ
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 122, thứ năm 2-5-2024
Xem thêm
Nhà thơ lê Đình Hòa chỉ thấy hoa phượng trắng
Bài viết của Lê Thiếu Nhơn về nhà thơ khiếm thị Lê Đình Hòa ở Phú Yên
Xem thêm
Lãng tử trong đời, chí thú trong văn
Bài viết về nhà văn Nguyễn Hoàng Thu trên báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Trong màu xanh Vàm Cỏ
Nhà văn Hào Vũ, sinh năm 1950. Quê quán: An Hải, Hải Phòng. Dân tộc: Kinh. Hiện thường trú tại 6/3 Cư xá phường 3, thành phố Tân An, tỉnh Long An. Vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984.
Xem thêm
Đỗ Thành Đồng và chuyển động đường thơ
Sau gần 15 năm đắm say đến điên cuồng với thi ca, nhà thơ Đỗ Thành Đồng, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đã xuất bản 7 tập thơ.
Xem thêm
Chuyện tình khó quên của Trịnh Công Sơn
Bài viết của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn
Xem thêm
Nhà văn Di Li: Tôi bị hấp dẫn bởi người đàn ông nhân văn, tử tế
Tôi nghĩ rằng, là người văn minh thì phải chấp nhận sống chung với sự khác biệt, tuy nhiên, sự khác biệt đó nếu không tốt, muốn người ta thay đổi thì mình sẽ góp ý. Và cách góp ý của mình cũng khá hài hước nên người nghe không mấy khi khó chịu.
Xem thêm
Người tốt trại Vân Hồ
Nhà văn Trung Trung Đỉnh, Giải A cuộc thi tiểu thuyết Hội Nhà văn, 1998 – 2000) với tiểu thuyết Lạc rừng. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Xem thêm
Nhớ nhà báo Phú Bằng
Đọc bác Phú Bằng từ lâu, khi tôi còn trực tiếp cầm súng ở Trung đoàn 174 Sư đoàn 5 thời chống Mỹ. Lúc ấy bác Phạm Phú Bằng là phóng viên báo QĐND được tăng cường cho báo Quân Giải phóng Miền Nam.
Xem thêm
Nhà văn - dịch giả Trần Như Luận với tác phẩm “Tuyển tập 12 truyện ngắn Anh - Mỹ kinh điển, lừng danh”
Tháng Sáu 2022, trên Báo Thanh Niên rồi Tạp chí Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam, nhà báo Hà Tùng Sơn và nhà phê bình văn học Vân Phi giới thiệu tác phẩm thứ 7 của nhà văn Trần Như Luận (TNL): tiểu thuyết Gương Mặt Loài Homo Sapiens. Trước đó, anh từng gây tiếng vang nhờ giá trị đáng kể của bộ tiểu thuyết Thầy Gotama và 8000 Đệ Tử dày tới 1.200 trang, trình làng năm 2014. Chúng tôi cũng biết tới cả trăm tác phẩm dịch của anh, cả thơ và truyện, xuất hiện trên các tạp chí Văn nghệ Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, Văn nghệ Quân đội, Non Nước, Sông Hương, v.v… Xuân Giáp Thìn 2024, nhà văn ra mắt một “dịch phẩm” hoàn toàn mới: Tuyển tập 12 truyện ngắn Anh – Mỹ kinh điển, lừng danh. Sách dày 320 trang, bìa bắt mắt. Sách được Liên hiệp các Hội Văn học-nghệ thuật Việt Nam thẩm định chất lượng và hỗ trợ kinh phí; NXB Hội Nhà văn cấp phép. Nhân một cuộc hẹn thú vị tại Quận 7, TP Hồ Chí Minh, trong một quán cà phê tao nhã, không bỏ lỡ cơ hội, tôi đã thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Xem thêm
Nhớ anh Mai Quốc Liên
Bài viết của nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Nhà văn Trầm Hương: Sứ mạng nhà văn là đi tìm những ẩn số
Hàng chục năm nay, nhà văn Trầm Hương (Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM) vẫn âm thầm theo dấu chân những anh hùng, người lính, mẹ liệt sĩ… để tìm nhân vật cho những trang sách của mình. Chị ghi dấu ấn đậm nét trong dòng văn học cách mạng hiện nay.
Xem thêm