TIN TỨC

Nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy: Giữ lại một ngày ta như lá

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-01 06:09:54
mail facebook google pos stwis
3241 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Khi đang là sinh viên khoa Văn ở Trường Đại học Sư phạm Huế, Tôn Nữ Thu Thủy viết bài thơ đầu tiên về mối tình tưởng tượng với ý định để dành tặng người yêu của mình, không ngờ giây phút đó lại thành khởi điểm để chị gắn bó một đời cùng thi ca.

Nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy

Suốt hành trình sáng tạo, chỉ bằng giọng điệu thì thầm của một phụ nữ gốc gác cố đô, nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy chinh phục bạn đọc theo cách lặng lẽ và nhẹ nhàng “Trồng cây tùng để làm tin/ Mở lồng thả hết cánh chim cho trời”.

Sinh ra và lớn lên bên bờ sông Hương, tâm hồn Tôn Nữ Thu Thủy được nuôi nấng bằng những cơn gió khe khẽ qua những hàng cây im ắng trong Đại Nội. Nguồn mơ mộng ấy ngỡ cho chị một cuộc sống yên bình nơi chôn nhau cắt rốn, không ngờ số phận lại đẩy đưa chị phải rời xa những tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga mỗi chiều.

Năm 1976, cô giáo trẻ Tôn Nữ Thu Thủy 23 tuổi đến tỉnh Khánh Hòa làm giáo viên ở Cam Ranh, mang theo bao nhiêu ngổn ngang thương nhớ “Mái nhà cha mẹ thôi đành/ Xa xăm ở giữa nội thành xa xăm”. Sau khi lấy chồng, chị chuyển về dạy học ở Nha Trang. Những ngày tha hương và những ngày bận bịu ở đô thị ven biển giúp chị gần gũi hơn với thơ. Rồi vần điệu của Tôn Nữ Thu Thủy cũng không thể tiếp tục dan díu với từng con sóng trắng xô dạt tít tắp Hòn Tằm, Hòn Yến, Hòn Mun…

Năm 1988, chị lại cùng gia đình chuyển vào định cư tại TP Hồ Chí Minh. Mảnh đất mới chộn rộn hơn, con người mới chen lấn hơn, Tôn Nữ Thu Thủy từ giã bục giảng để đi làm báo và làm sách. Những ngày xuôi ngược tầng thấp tầng cao giăng mắc nỗi niềm, chị tập đối diện chính mình “Giá như bao giờ cũng biết/ Buồn vui là tự nơi mình/ Giá như đừng cô đơn quá/ Núi xanh mở lối gập ghềnh”, và chị tập an ủi chính mình “Sương vừa rơi giữa đêm nay/ Để mềm chiếc bóng của ngày hôm qua”.

Nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy cư ngụ trong một con hẻm nhỏ ở quận 8, sự ồn ào không làm chị bức bối, sự đơn điệu không làm chị hiu quạnh: “Trong không gian trắng/ Có người biết mình yêu điều gì, cần phải làm gì/ Cặm cụi bên những vi mạch từng ngôn ngữ kết nối sinh sôi cho đời…”.

Chị may mắn có được người chồng là nhạc sĩ, luôn thấu hiểu và khích lệ vợ mình bên ngọn đèn bàn viết xanh xao chữ nghĩa. Những tập thơ nối tiếp nhau ra đời “Viết tặng ánh lửa”, “Trái đất đang nóng dần lên”, “Hoa hồng xanh”, “Mắt lá”, “Dưới mái nhà xanh” đủ để độc giả nhận diện được chân dung nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy dung dị mà suy tư: “Để làm dịu nỗi đau/ Tôi xoay trở/ Nghiêng nghiêng, bám tay vào hàng phím sóng/ Trùng khơi đáp lời…”.

So với những nữ sĩ cùng thế hệ, nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy dường như đứng ngoài những bộn bề danh lợi. Không giả vờ khiêm cung, chị chọn một lối đi hiền lành và thanh thản “Em về từng bước nhỏ/ Bên đất trời lớn lao”.

Thế nhưng, sự nhạy cảm của một người đàn bà cầm bút lại không cho phép chị thờ ơ với những náo động xung quanh. Chị cũng hoang mang thế sự “Nhiều khi ở giữa ngày thường/ Tôi còn lại những nỗi khổ đau của chính mình từ bi kịch của người khác/ Cánh cửa không mở ra cánh rừng/ Tôi hốt hoảng trước bức tường trắng”, và tự tìm cách thanh lọc bản thân “Khi mây không còn là mây/ Âm vang rời những âm vang/ Tôi lại là tôi/ Một phụ nữ nhỏ nhoi/ Với những đoá hồng chưa kịp tươi lại/ Sau buổi chợ mai”.

Căn tính nữ trong thơ Tôn Nữ Thu Thủy nghiêng hẳn phía chia sớt bất hạnh và bơ vơ. Những cảnh đời thường thoáng qua mà nhiều người không để ý, thì chị lại ám ảnh và day dứt. Đó có thể là người phụ nữ bất chợt nhìn thấy giữa cơn mưa với những lầm lũi không mấy ai đồng hành san sẻ: “Chị run run trong mưa/ Bước chân không dừng lại/ Vẳng nghe trẻ con cười nói/ Nhớ một ngôi nhà sau rặng cây xa/ Đi qua mưa đi qua mưa/ Trái tim nấu nung che chở/ Chị trở về bên cánh cửa/ Mang theo hơi ấm cuối cùng”.

Đó có thể là đứa trẻ tình cờ nhìn thấy bên thềm nhà vắng vẻ không vòng tay âu yếm che chở: “Mẹ đi bán rau, mẹ vẫn chưa về/ Em ngồi chơi với đồng tiền lá…/ Mẹ đi đâu chưa về mẹ ơi/ Mẹ nói ba không còn ở trên đời/ Làm sao con đi một mình không có mẹ/ Con đói quá, con mệt quá/ Con buồn ngủ quá…”.

Những câu thơ không cần đẽo gọt ngôn ngữ cũng không cần bóng bẩy ẩn dụ, lại giống như những thước phim quay chậm khơi dậy phấp phổng xót xa, đánh thức nôn nao lương thiện. Phẩm chất thi sĩ của nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy hiển lộ ngay những trắc ẩn mong manh! Thậm chí, khi xem bức tranh “Tĩnh vật giày của Van Gogh” thì chị cũng không giấu được ngậm ngùi cho những bôn ba, những chới với, những khấp khểnh, những chênh vênh mà mỗi kiếp người dự phần trong cõi nhân gian chìm nổi lênh đênh: “Chẳng giấu mình mòn vẹt/ Những chiếc giày đi tìm giấc mơ đến đứt dây/ Xấu cũ sau hành trình mải miết/ Những chiếc giày mỉm cười bước cùng số phận ai…”.

Nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy có cuộc sống giản đơn và êm ấm. Những xáo trộn chốc lát đều được chị dàn xếp, những mất mát riêng tư đều được chị vỗ về, nên mảng thơ tình của chị rất ít dư vị cồn cào. Thỉnh thoảng chị đau đáu “Mây đổi thay rồi hàng dương oằn gốc/ Mùa qua hư huyền cánh chim bặt tăm/ Cát vàng trôi đi đầy vơi vỏốc/ Tình yêu nào buộc ràng biển thức bao năm?” rồi chị lại thương lượng với sự hài lòng duyên nợ “Mai sau bóng vườn thành hư ảo/ Anh có nhìn ra một nét cười?”. Chị đặt câu hỏi mà không chờ ngóng hồi đáp. Chị đặt câu hỏi chỉ để trái tim mình xao xuyến theo những nhu cầu tự tại ung dung!

Cốt cách đằm thắm của một người phụ nữ Huế thể hiện trong thơ Tôn Nữ Thu Thủy chủ yếu tập trung vào sự chan hòa với thiên nhiên. Giữa phố xá ngột ngạt, chị hướng về lá về hoa để bộc bạch, để lý giải, để thông cảm. Nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy có cách định nghĩa về hoa khá độc đáo: “Hoa/ Nụ cười của đá xanh bao năm trước/ Đám mây của giọt lệ bao năm trước/ Làn nắng của rêu mốc tù hãm bao năm trước”.

Nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy cũng có cách ứng xử với lá khá thú vị: “Lá như tóc đậu trên vai/ Không tháng năm không hờn giận/ Bao nhiêu cơn gió đường dài/ Đã trượt ra ngoài số phận”. Hình tượng hoa và lá trở đi trở lại liên tục và dày đặc trong thơ chị, vừa là đối tượng phản ánh, vừa là ký hiệu thẩm mỹ, vừa là giá trị trữ tình. Hoa nở như cơn cớ của lãng mạn, lá rụng như hoài vọng của quá khứ, hoa và lá cùng hiện ra như tích tụ của kỷ niệm.

Dù không gian chật hẹp, thì chị cũng thấy “Ngoài cửa” thật mênh mông “Hoa súng trắng ngẩng nhìn bầu trời trắng hơn chút nữa/ Cánh chim với bầu trời bay lên/ Nguồn nắng rót niềm ấm áp vô tận/ Có phải bầu trời cũng tự nhủ sẽ xanh hơn”. Cho nên, một lần ngắm “Hoa tiểu quỳnh giữa tinh sương” khiến chị bồi hồi “Hoa sinh ra cùng giấc mơ/ Ở cách xa những dối lừa/ Ở cách xa điều ác/ Hoa sinh ra như tuổi thơ”, một trải nghiệm “Đêm sao ở Từ Viên” khiến chị nghẹn ngào “Những giọt sương vẫn chậm rơi trên lá sứ/ Ngùn ngụt hơi lạnh đông xuân chẳng ru ngủ nổi mình/ Nghe một điều gì chớm khẽ/ Níu lòng trong ánh sáng của đêm”, mà một dịp đứng “Giữa vườn hoa Trúc Lâm” cũng khiến chị mãn nguyện “Hoa vươn lên từng cánh mong manh/ Chuộc lại ngày mưa thưa sắp vào chiều tối/ Có giấc mơ hóa bướm giữa vườn/ Đất trở thành niềm vui cứu rỗi!”.

Thơ Tôn Nữ Thu Thủy không tạo ấn tượng bằng sự lấp lánh tu từ khéo léo. Thơ Tôn Nữ Thu Thủy cũng không tạo ấn tượng bằng vần điệu trầm bổng du dương. Thơ Tôn Nữ Thu Thủy có ưu điểm ở những khoảnh khắc thảng thốt của những điều bất an mơ hồ, của những phen xô lệch bịn rịn. Đó là những vang động không thể nào nghe được bằng đôi tai: “Dãy tường đá cũ còn in tiếng/ Từng lá sen làm sao tĩnh tâm”. Đó là những mong muốn không thể nào làm được bằng đôi tay: “Tôi vẽ hoa sen/ Mà chẳng vẽ được nụ cười thuần hậu ấy/ Tôi kể về hoa sen/ Mà chẳng kể hết được làn hương ấy/ Luôn luôn sen vượt qua cái nhìn của tôi/ Tôi mơ giấc mơ/ Một cô bé ôm cành hoa sen/ Được sống hạnh phúc mãi mãi”.

Bây giờ nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy đã quá tuổi lục thập. Cô nữ sinh thuở nào rạo rực những câu thơ đắm đuối qua mười hai nhịp cầu Tràng Tiền, hôm nay đã là bà mẹ của bốn gã trai phương trưởng và thành đạt. Nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy lại dùng thơ ru cháu như đã từng ru con “Những ngày đẹp/ Có bao giờ phai đi/ Bầu trời xanh mãi thầm thì”, và lắng đọng cho chính mình “Giữ lại một ngày ta như lá/ Xanh giữa trưa vàng êm ả ru/ Có một niềm vui thường im lặng/ Có bao giờ nói hết mùa thu…”.

6-2019

L.T.N
Nguồn: http://vnca.cand.com.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm