TIN TỨC

Miên man Xuân Lợi

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-11-23 09:09:23
mail facebook google pos stwis
1708 lượt xem

PHẠM XUÂN NGUYÊN

 

(Đọc tập thơ Nghiêng phía miên man của Xuân Lợi, NXB Hội Nhà Văn, 2024)

Không phải vì tên tập thơ mà tôi đặt tên bài viết này như vậy. Nhưng cũng đúng là vậy, chính vì câu thơ “nghiêng phía miên man” đã như một ký hiệu cho tôi nhận ra tâm hồn và cảm xúc của tác giả tập thơ. Xuân Lợi như không viết thơ mà anh mượn câu từ cho những rung động của hồn mình chảy thành vần điệu. Mà tâm hồn Xuân Lợi lại rất dễ rung động, vang ngân trước bất kỳ biểu hiện nào của cuộc sống. Ngỡ như anh nhìn vào đâu cũng tìm cách gieo vần gọi thơ. Thơ đó là người đó, câu này vận vào được cho Xuân Lợi. Anh gọi thơ mình là “nhâm nhi bối rối” nghĩ cũng đúng. Thơ Xuân Lợi mộc mạc và chân thật.

Ta hãy đọc những bài thơ riêng tư của anh, tức là những bài anh viết từ cuộc sống của gia đình mình, bản thân mình. Xuân Lợi viết về người Mẹ goá bụa từ tuổi hai mươi, ở vậy sáu mươi năm làm dâu, nhớ mẹ Om cơm môi mớm cho con đến giờ. Câu thơ nửa đầu “om cơm môi mớm” là nhớ lại cảnh mẹ nuôi mình hồi bé dại theo cách cổ truyền của mẹ nông thôn Việt Nam, nửa sau “cho con đến giờ” là thấy mình sáu mươi năm cuộc đời vẫn còn bé dại trong mắt mẹ, vẫn phải nhờ vào sự chăm sóc của mẹ. Năm tròn một vòng đời hoa giáp (2019) anh viết bài “Tự tình” như một chân dung tự hoạ.

 

Buồn vui công chức vô thường

Băn khoăn trăn trở khôn nhường... ấy ơi

Thầm thì “Múa gọi là” chơi

Gửi hồn con số nhắn lời minh linh....

 

“Múa gọi là” là cách tác giả đọc lái tên tập thơ trước của mình “Lá gọi mùa”. Nhưng ba chữ đọc lái đó lại nói được tâm trạng người của một công chức trong bộ máy, múa may gọi là sống ở đời. Thân xác thì ngày ngày gắn với bàn giấy, với nghiệp kế toán con số mà câu thơ tự trào có thể làm bật cười trên vê dưới chỉnh nhầm đường lửng lơ, còn tâm hồn thì để ở nơi nhắn lời minh linh. Hai chữ “minh linh” này tác giả dùng ở mấy chỗ trong tập thơ, giải nghĩa nó ra e mông lung, mà đọc lên lại cũng thấy mông lung. Thôi thì “ấy ơi” là ai ơi sẽ hiểu nỗi lòng của người cất tiếng gọi đó. “Em ơi có bao nhiêu sáu mươi năm cuộc đời” lời một bài hát đã réo rắt bao lâu nay trong lòng người, thì lời thơ Xuân Lợi cũng ngậm ngùi như vậy Nổi chìm phận kiếp duyên sinh / Sáu mươi chóng vánh đời mình là bao.

Ở bài thơ mà tên bài được lấy làm tên tập Xuân Lợi nói nỗi lòng người cha đối với đứa con gái học trường Y. Chỉ hai câu Con chăm học vì yêu mẹ nhất / Ít vu vơ vì sợ ba buồn đã nói được cả lòng mẹ cha và tính cách người con. Tấm lòng cha thương con được diễn tả rất cụ thể, rất thật, đọc lên thấy rưng rưng:

 

Ba cưng chiều thương từng bữa cơm

Lo da diết lưng rau thiếu cá

Con gái mê canh chua măng khế

Dăm ba ngày điện hỏi han con

Nhưng tình thương của người cha đối với con gái không chỉ ở cơm ăn nước uống khi xa nhà. Xuân Lợi kết lại bài thơ bằng nỗi lo đường đời cho con. Khi con cái rời vòng tay cha mẹ bước ra đời, bước vào xã hội, những bậc sinh thành vừa mừng vừa lo. Cái lo biến thành cái nghĩ. Cái nghĩ không biết làm sao giúp được con, không cách nào còn có thể cầm tay dắt con đi như hồi bé dại hoá thành nỗi miên man đau đáu trong tâm trí. Con gái tính mơ màng bồng bột / Trở mình cha nghiêng phía miên man. Bốn chữ cuối câu thơ cuối bài thơ đã nói được bằng thơ nỗi niềm ám ảnh người cha, và người đọc thơ từ đó lại bị ám ảnh nỗi niềm này.

Nhà thơ  Xuân Lợi

Cũng nỗi lòng người cha nhưng là nỗi đau tột cùng của người cha mất đứa con trai. Bài thơ “Rụng rời” Xuân Lợi ghìm tiếng khóc, tiếng nấc tiếc thương con, đau cho mình trước cảnh “lá xanh rụng xuống, lá vàng ở lại”, nhìn ảnh con trên bàn thờ mà âm dương chia lìa Tượng hình chai bóng nghe nói chẳng thưa lời. Nghiêng phía miên man của Xuân Lợi là nghiêng về những nỗi niềm thân phận như vậy. Miên man chìm đắm.

Từ phận mình Xuân Lợi chạm đến những phận người khác, như những người lính vượt sông Thạch Hãn năm nào để nhìn sông bây giờ thấy đó là nghĩa trang sông: Đêm chới với dòng sông màu đỏ / Nghĩa trang sông không nấm mộ/ Dòng tên. Đã nhiều người viết về dòng sông Thạch Hãn đau thương bi hùng trong 81 ngày đêm chiến đấu giữ Thành cổ Quảng Trị với nhiều câu thơ buốt nhói lòng. Xuân Lợi góp vào đó một thanh xuân đôi mắt trong veo của người em gái bây giờ bên nghĩa trang sông nhìn gì ngấn nước xa xăm. Thế đã đủ ngấm cái giá của chiến thắng hôm qua và hoà bình hôm nay. Vốn cũng từng là người lính nên Xuân Lợi nhạy cảm với những hy sinh của đồng đội không chỉ trong thời chiến mà cả thời bình. Anh đã có thơ cho những đồng đội trẻ đã hy sinh khi giúp đồng bào miền Trung những ngày bão lụt dữ dội mấy năm qua, với cảnh: Em gào thét thương nhớ biển sóng mênh mông/ Âu chờ, lạ thành quen vọng phu hóa đá/ Nghĩa trang nào đếm được tình rừng xanh trút lá/ Bảo tàng đâu đong nước mắt đêm thâu ới chồng!

Xuân Lợi học đại học tài chính kế toán, ra trường đã đánh bạn với con số tính toán từ Sở công nghiệp Bình Trị Thiên đến Sở Thuỷ sản rồi Sở Nông nghiệp Quảng Trị cho đến ngày về hưu tại quê nhà. Đời công chức nhàn nhạt tháng ngày đã được anh nói đến trong thơ bằng những câu thơ mang vị tự trào như trong bài thơ đã dẫn trên. Nhưng đấy là con người công sở giữa bốn bức tường khép kín. Còn con người cảm xúc, người thơ ở Xuân Lợi thì khi ra với bên ngoài, đến với những công trình công việc của nghề nghiệp mình lại dễ dàng rung lên những xúc động ân tình. Nhưng ở mảng thơ tôi gọi là “viết ngoài mình” này Xuân Lợi thường chưa đi tới được mình trong thơ. Ở đây chính sự miên man có khi làm anh lan man kể lể trong thơ, nhất là ở những bài anh viết về những việc những sự ở bên ngoài, nhân một dịp nào đấy. Thơ kỷ niệm không phải là không đáng viết, không thể viết hay, nhưng nhà thơ chỉ viết được hay khi có xúc động đủ độ chín, không nệ vào sự thực ngoại cảnh mà phải lấy độ chín của cảm xúc của tâm hồn. Những bài đứng được trong tập thơ này của Xuân Lợi chính là khi tác giả viết từ vang động của tâm hồn trước thực tại. Người đọc không biết và không cần biết cảnh này ở đâu, người ấy là ai, việc đó thế nào, chỉ biết tâm hồn nhà thơ đã rung lên trong vần điệu câu chữ làm hồn mình cũng rung lên. Cái miên man trong thơ Xuân Lợi như vậy nên cần thiết là của tình chứ không phải của kể. Nếu được muốn, tôi muốn thơ anh vẫn là cứ miên man và “vu vơ” (tên một bài trong tập) của tâm hồn. Như ở bài anh viết về đám cưới con gái thư lấy chồng miền biển ở Hạ Long thì hai câu cuối là có thể đọng lại tình: Bờ cũ sóng say ôm hôn mãi / Biển vỗ bờ ru ôm cát hát yêu. 

Thơ miên man cũng dễ khiến người thơ lơ lửng mà bài “Bỗng quên” là bài có thể đại diện được nhất cho hồn thơ Xuân Lợi. Các trạng thái bất chợt “im, nghe, buồn, hay, thương, đau, thèm, ghen, hờn” sau chữ “bỗng” là biểu hiện cụ thể của những nhớ nhung, luyến tiếc, xót xa, nó là những âm cao của cung đàn tình yêu, để khi tất cả những trạng thái đó rút lại vào “Bỗng hồn” thì chùng xuống trong một nốt trầm “Bỗng quên”. Thể thơ lục bát ở đây tăng thêm nhạc tính cho thơ khiến hồn và tình càng chơi vơi, vì thế bài thơ tưởng nhẹ nhàng mà day dứt. Nói tới lục bát của thơ Xuân Lợi thì có thể kể thêm bài “Tóc nâu một người”. Bài thơ vào đầu nói nắng trưa nhưng đến cuối lại ra đêm rằm, chắc tác giả để mạch cảm xúc miên man dắt đi, hoặc giả tác giả muốn nói cây cau ở hai thời điểm khác nhau để diễn tả được ý thơ. Câu thơ Ngực căng bẹ sữa tròn đầy ái ân tôi đọc giật mình vì chưa thấy ai tả cái bẹ cau hoặc so sánh ngực thiếu phụ với bẹ cau đậm sắc dục đến vậy. Đọc thơ Xuân Lợi đôi lúc giật mình khoái chá được nhâm nhi nhấm nháp những câu thơ so sánh bất ngờ không có chữ “như” như vậy. Hãy đọc thêm hai câu này: Biết em thời lúa đòng thì con gái /  Hương đồng ngậm sữa hạt mẩy đa tình (Ngập ngừng rưng rưng).

Điệu tâm hồn miên man lơ lửng của Xuân Lợi lại dễ buông cho những câu thơ dãn ra dặt dìu đến có lúc chữ chen chữ cuốn nhau đi. Hình như đó là cách tác giả tạo nhạc tính cho câu thơ để diễn tả lòng mình. Bài thơ vì vậy có khi cốt ở nhạc chứ không phải ở ý. Có phải vì thế mà một số nhạc sĩ đã tìm thấy cảm hứng ở thơ anh để phổ thành lời ca tiếng nhạc mà bài “Nhớ hoài sông trăng” viết về con sông Nhật Lệ (Quảng Bình) là thí dụ tiêu biểu. Hoặc như bài “Hoa Mua” viết theo thể thơ NamKau, trong một câu nhắc lại cách chơi chữ “hoa mua ai bán mà mua”. Nhưng cả bài là một điệu thương hoa, say hoa, say tình bằng những câu chữ buông lơi mà chỉ đọc thôi đã phải nương theo nhịp và nhạc của câu thơ:

 

Hoa mua giọt tím đong đầy mi mắt

Hương vàng phảng phất điệu đàng lưng ong lượn

Mảnh mai ai bán đòi mua..!

 

Rực rỡ hơn thua dễ gì mùa hoa dại

Môi son mềm mại liệu thắm mãi sợ hơn phai…

Xuân Lợi thường đặt những câu trải dài miên man này vào cuối bài để kết lại mà mở ra, để tạo cảm xúc ngân nga vương vấn. Những thanh không thanh huyền, những vần nối nhau trong một câu vì vậy hay được tác giả sử dụng. Và khi đọc những câu những bài như vậy của Xuân Lợi thường khi cũng đừng dùng logic luận lý để suy luận, so đo. Thơ mà!

 

Cầu vồng đa sắc làn mây mong manh ửng đôi má

Dạ hương thơm mát nhấn nhá trái ngọt đầu cành.

(Dạ hương)

 

Chiều xuân hoa sóng nắng ru người.

                                                        Ngóng trông bật khóc

Bóng lung linh thoáng chốc ngờ ngợ…

                                                        rơi nghiêng mất rồi!

(Rơi nghiêng mất rồi)

 

Đôi mắt trao nhau chới với hơn ngàn lần ân ái

Tình lỡ xao lòng ngần ngại mãi bâng khuâng!

(Mãi bâng khuâng)

 

Nhưng cũng có khi Xuân Lợi chơi kiểu cách thơ. Như ở bài “Dễ gì như sóng” ở khổ cuối anh ghép những chữ đầu các câu thơ in đậm thành một câu có nghĩa, và toàn khổ thơ gieo một vần bằng.

 

Dễ gì như sóng

Mới hiểu yêu em đau đớn nhường nào!

Mới biết môi hồng lần đầu mặn mà làm sao!

Mới cảm yêu em đến dại khờ thiết thao!

Mới thông nỗi hẹn hò thương nhớ biết bao…

Hoặc nữa, Xuân Lợi có một bài tôi đọc thấy rùng mình. Bài thơ tả một cô gái trong mắt của người thơ mà câu chữ hình ảnh cho thấy là gái đẹp, đẹp một cách mỹ miều. Lại là gái đẹp trong cảnh ngày xuân. Đọc bốn câu đầu nói mắt môi má tóc thì nghĩ chỉ nhìn thấy thôi là đã muốn yêu. Vậy mà tác giả hạ một câu chốt thì khiến người đọc sững sờ. Dáng người. Nhĩn quá! Rợn da… “Nhĩn” là gì mà nhĩn quá thì người ngắm vẻ đẹp thấy rợn da? Và hai chữ cuối của câu chốt được lấy làm tên bài thơ.

 

Nắng xuân trôi thấp sà ngang

Mong manh tang mỏng như nàng thèm yêu

Má đào lúng liếng mỹ miều

Môi thơm mắt đắm tóc Kiều mây sa…

 

Dáng người. Nhĩn quá. Rợn da…

Thơ Xuân Lợi miên man là thế. Anh có khi mộc mạc, chất phác. Lại có khi có những câu thơ, ý thơ bất ngờ, tinh tế. Hình như anh đã có lựa chọn của mình khi đến với văn chương, đi vào cõi thơ. Chữ nghĩa văn chương anh coi là trọng, không phải kiểu viết lời suông. Thơ với anh không phải cố tỏ ra gào rú tỏ tiếc thương, không phải cảm tác như vẽ xót thương, không phải gồng mình lên cố tỏ ra bi luỵ bi kịch bi thảm. Nhà thơ phải tìm đúng lời nói đúng lời của chữ nghĩa văn chương, nghĩa là phải chân thật, thật với mình và thật với người. Thật từ trong lòng mình ra, không vay mượn, đắp điếm, tô vẽ: Sầu khô thôi đi màn kịch tính / Lời gì đúng chữ nghĩa văn chương.

Khi đã xác quyết được cho mình một lẽ sống về thơ như vậy, tôi tin Xuân Lợi sẽ tiếp tục miên man với thơ với đời đầy đặn ân tình.

 Hà Nội, cuối Thu 2024

 P . X .

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm