TIN TỨC

‘Rừng hẹn’ và cơn nhập đồng của Hà Đình Cẩn

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-12-20 21:45:56
mail facebook google pos stwis
2375 lượt xem

 

Tô Hoàng

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – “Rừng hẹn”, tên sách dễ khỏa lấp giữa nhiều tên sách khác. Bìa sách không gây ấn tượng. Sách chào đời ở một nhà xuất bản ít có uy tín với thể loại tiểu thuyết. Cộng thêm căn bệnh phổ biến ở người đọc bây giờ: khó đủ say mê và kiên nhẫn đọc từ trang đầu đến trang cuối, mà không bỏ lửng giữa chừng. Ấy vậy, nhưng “Rừng hẹn” mang chất kháng thể với bệnh lười đọc hiện nay.

VIẾT NHƯ ĐANG TRONG CƠN NHẬP ĐỒNG

(Đọc “Rừng hẹn” – Tiểu thuyết của Hà Đình Cẩn, NXB Quân Đội Nhân dân 2020)


“Rừng hẹn” – Tiểu thuyết của Hà Đình Cẩn.

Nhân vật “tôi”, người dẫn chuyện vốn thuở xưa là anh lính “cờ đèn kèn trống” thuộc ban tuyên huấn một trung đoàn quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu trên chiến trường Lào trong những năm 1970. Công việc thu tin, chụp ảnh, in báo lito giúp “tôi” được tham gia nhiều trận đánh, trò chuyện và gom nhặt được nhiều tích chuyện. Hơn 30 năm sau, “tôi” trở lại chiến trường xưa, như đi du lịch, lại như muốn gặp được cố nhân, muốn kiểm nghiệm, so sánh giữa hôm qua và hôm nay…

Đất nước Lào bên kia biên giới hiện lên trong “Rừng hẹn” lung linh, sánh đặc trong bảng pha màu đầy quyến rũ, chào mời như trong “Đảo hoang” của Jules Verne hay “Robinson Crusoe” của Daniel Defoe. Trên vòm trời chan chứa ánh nắng có những đốm sáng nhấp nháy. Những đốm sáng hiện hình dần là những con chim đại bàng đất. Loài chim làm chủ cao nguyên mùa khô mạnh mẽ ghê gớm, ngày hai lần bay chếch nắng, từ Nam sang Bắc rồi từ Bắc quay về Nam như là để đọ sức với nắng gió hơn là để kiếm sống (tr. 6). Chúng tôi đi vào cánh rừng bằng lăng thoáng, đầy nắng, gió thổi lạo xạo lớp lá khô dưới chân. Ở xứ rừng này, thiên nhiên khắc nghiệt mấy, rừng vẫn hào phóng. Một cành hồng với những quả chín đỏ chim ăn dở còn treo lơ lửng như mời gọi trước mặt (tr.17). Ngoảnh về phía nam, phía tây nam Cánh đồng Chum, những ngọn núi cao giũ sạch đất, chỉ còn lại bộ xương cốt bằng đá trắng thúc lên trời nhìn gớm ghiếc. Cây rừng thưa thớt trong kẽ đá. Có thể xem tất cả cây ở vách đá là cây bon sai, dáng thấp, gốc phình to, lá cằn cứng như vẩy tê tê (tr.131)…

Còn phong tục, tập quán các dân tộc Lào thì sao? Bản Lào ở trong rừng hay phố đều giống nhau về sự yên lành, với những ngôi nhà không rào giậu, không đóng cửa và những chủ nhân đi đứng khoan thai, nói năng nhỏ nhẹ, khói bếp tỏa thơm mùi xôi nếp. Bản làng, nhà cửa với người Lào là nơi trú ngụ tĩnh dưỡng” (tr.30) Người Lào không bao giờ ăn hết nắm xôi trong tay. Ăn như vậy bị cho là mất mùa. Vì thế, cầm nắm xôi, người ăn bẻ từng miếng nhỏ, ăn cho đến khi chỉ còn một miếng, thì lấy xôi tiếp, không để hết xôi trên tay nếu chưa phải miếng ăn cuối bữa (tr.48). Món lạp thịnh soạn ở các gia đình khá giả có thịt lợn, hoặc thịt bò, thịt gà dằm với gan băm nhỏ, trộn ớt, muối, tỏi, tiêu và nước chanh (tr.79). Đêm nào cũng Lăm Vông, nhưng đã vào múa thì các chàng trai, cô gái đều chấp hành thể lệ nghiêm ngặt của điệu quốc vũ. Ấy là khi múa, kể cả được mời rượu, người trai múa không được chạm tay vào người cô gái múa cùng. Người trai khi múa nếu vô ý chạm nhẹ tay vào tay cô gái, cô lập tức dừng múa. Người trai phải chắp tay xin lỗi, cô gái mới thuận lòng múa tiếp (tr.79)…

Những ví dụ có thể dẫn ra như thế đan xen trên từng trang sách. Mà đâu chỉ là ở công phu gom nhặt, sưu tầm. Đặt trong văn cảnh cụ thể chúng hầm hập tình yêu, sự tôn trọng nhất định phải là của những ai đã từng sống trải.

Trong “Rừng hẹn” còn kể nhiều chuyện về cứ điểm Sảm Thông, Loong Chẹng xưng hùng xưng bá một thời với nhiều lớp hàng rào phòng thủ bằng mìn, bằng thân xác những bà con người Mẹo để cản đường tấn công của quân tình nguyện Việt và quân Pathét Lào. Đồn trú trong căn cứ ấy là ba sắc lính gồm những tiểu đoàn lính Thái, bọn phỉ Vàng Pao và quân của chính phủ Hoàng Gia. Sách kể về Cánh đồng Chum, một địa hình thuận lợi cả Pháp trước đây và Mỹ sau này đều đặt kỳ vọng vào những ý đồ quân sự bao trùm toàn cõi Đông Dương: từ Cánh đồng Chum mất hơn chục phút, máy bay có thể đã lượn trên vòm trời Hà Nội, Phnom Penh, Sài gòn. Kể về vua mèo Vàng Pao được cả Pháp và Mỹ nuôi dưỡng, huấn luyện..

Nhưng “Rừng hẹn” vẫn giành nhiều trang nhất cho những chiến sỹ tình nguyện Việt Nam sang giúp bạn Lào đánh giặc từ những năm 1947, 1948, trải qua thời kỳ thử thách của những năm 1960 để tiến tới những đòn đánh lớn vào Xuân Hè 1972…

Ngổn ngang, bề bộn từng ấy cảnh thực, người thực, việc thực của cả xa thật là xưa và những cuộc tao ngộ vui buồn ngày hôm nay như vậy, đọc vài chục trang đầu, những tưởng “Rừng hẹn” nhập dòng với nguồn “văn học phi hư cấu” ào ạt xuất hiện vài ba năm trở lại đây. Nhưng càng đọc thêm tính tiểu thuyết của “Rừng hẹn” càng lồ lộ, càng thuyết phục.

Đóng đinh trong “Rừng hẹn” là hai cuộc tình..

Cuộc tình kỳ lạ mà có “happy end” ta gặp đầu tiên là giữa ông Tín và Duông. Thời trai trẻ Tín là một trinh sát gan dạ, táo bạo, thường một mình bò tận vào trong sân căn cứ địch. Duông, một cô gái Lào dòng dõi Hoàng tộc, có gương mặt trái xoan và đôi mắt đẹp. Tín đã cứu Doan khỏi căn cứ của bọn phỉ. Cái trao đổi bằng ánh mắt thoáng nhìn ngay trong căn cứ địch ấy đã dàng dịt họ với nhau. Rồi anh phải về Việt Nam, chị ở lại Lào, để tới 4, 5 năm sau, Tín đáp xe tìm sang Lào nên duyên chồng vợ với Duông.

Cuộc tình thứ 2 của những “con người cơ nhỡ” giữa ông Nghi và cô gái Lào tên Bua. Nói đúng hơn là cuộc tình tay ba, khi có thêm người chồng cũ của Bua là Phủi. Nghi- thuộc lớp chiến sỹ tình nguyện Việt Nam đã tự cà răng, căng tai, nói tiếng Lào, hiểu phong tục tập quán các bộ tộc Lào như người Lào để trở thành cán bộ dân vận, khi công khai khi “nằm vùng”. Vì sự hy sinh thầm lặng trong suốt 5 năm, người vợ ở quê đã bỏ anh theo một người đàn ông khác. Bua, cô gái Lào nhan sắc, hát hay múa đẹp đã đem lòng yêu thương chàng trai Lào sức vóc, bắn súng giỏi tên Phủi. Nhưng Phủi theo phỉ, thành đồn trưởng của vua Mèo Vàng Pao. Dù là vợ Phủi, nhưng Bua vẫn phải là “đồ chơi” cho bọn sỹ quan Vàng Pao và cố vấn Mỹ. Nghi đã chứng kiến những đau khổ của Bun, đã nhiều lần cứu cô. Tình yêu giữa Nghi và Bua tựa như những mất mát, thiệt thòi tự nhiên phải được san sẻ. Nhưng rồi Nghi bị thương, phải trở về Việt Nam. Bua ở lại Lào chờ đợi trong vô vọng. Để đến nhiều năm sau mới sang nghĩa trang Việt Nam xin vong của Nghi đưa về một ngôi chùa thờ trên đất Lào, khi Bua đã bước vào tuổi xấp xỉ 50.

Hai mối tình này, bù trừ cho nhau, nếu cấu trúc theo kiểu “chẻ dọc” cũng thừa đương lượng cho một cuốn tiểu thuyết. Tính cách và diện mạo các nhân vật đã hiển hiện. Mâu thuẫn, xung động đã đạt tới cao trào. Chia ly và trùng phùng đủ cả. Nhưng “Rừng hẹn” còn muốn nói tới nhiều điều khác; muốn đặt các mối tình này trên cái nền của một khúc tráng ca. Thành thử “Rừng hẹn” lần mò một lối đi riêng.

Tôi không am tường, rạch ròi về thi pháp, thủ pháp của tiểu thuyết hiện đại. Tôi đành mượn những điểm mạnh giúp cho điện ảnh thời buổi 4.0 đạt được mọi cung bậc biểu cảm của văn chương để diễn giải điều mình định nói.

Bước vào cuộc cách mạng kỹ thuật số, điện ảnh đã nhẹ nhàng vượt qua sự ì ạch, chậm chạp khi muốn chuyển từ cảnh hiện tại qua cảnh quá khứ hoặc ngược lại. Chỉ cần một cú nhấp chuột, thế giới trên màn ảnh hòa quện nhịp nhàng, uyển chuyển yếu tố miêu tả với yếu tố tự sự, cái của ngày hôm qua với cái của ngày hôm nay; cái từ tít trên trời cao với cái là là trên mặt đất. Đọc “Rừng hẹn” thấy rõ tác giả rất thông tỏ, thành thạo với những cú clik chuột như thế, với thủ pháp montage của điện ảnh hiện đại.

“Rừng hẹn” không ưa một kiểu kể chuyện tởi ra hết lớp này tới lớp khác mà muốn xáo trộn, đan xen nhưng sao vẫn rành rọt, mạch lạc. Hãy nêu một ví dụ thôi.

Ở trang 1 chàng “Tôi” bập ngay vào kể lại chuyện lúc nhân vật Nghi hấp hối trên giường bệnh. Ông cựu tình nguyện quân Việt Nam này trằn trọc, vật vã và luôn miệng gọi tên Bua. Để ông Nghi được thanh thản về cõi bên kia, người ta phải nhờ cô y tá của trạm điều dưỡng đến bên ông thì thầm: “Em đây, Bua đây”. Ông Nghi níu lấy lưng cô y tá, trút hơi thở cuối cùng.

Sang trang thứ hai, thứ ba, trong chuyến “Tôi” sang thăm lại nước Lào, đâu đó cả chục năm sau, người đón “Tôi” là… Bua. Và cứ thế, giữa bề bộn, ngổn ngang bao người, bao việc nhân vật Bua bộc bạch mối tình đầy đớn đau và bù đắp của mình với người đã khuất.

Những thủ pháp trộn cảnh, chuyển cảnh như vậy rất nhiều trong “Rừng hẹn”. Cũng xin được lưu ý thêm, nhờ phép montage này từng chương, từng trang và cả cuốn sách bỗng như tăng thêm dung lượng. Và điều còn kỳ lạ hơn nữa, “Rừng hẹn” tạo được sự hài hòa giữa bi ca và tráng ca.

Một yếu tố khác của điện ảnh hiện đại là việc gây ấn tượng. Một nguyên tắc của phim hay quy định từng đoạn, từng cảnh trên màn ảnh luôn luôn phải như gội từng gáo nước lạnh lên đầu người xem, buộc họ không được một giây phút nào thiu thiu ngủ. Với “Rừng hẹn”, tác giả vô tình hay cố ý đây rất hay dùng những thủ pháp thuộc nghiệp vụ báo chí. Ví như tác giả gọi cả họ cả tên chiến sỹ xử dụng B.41 là Hoàng Đăng Kiếm, pháo thủ cối 61 ly Lại Văn Hùng, tiểu đội trưởng tiểu đội cửa mở Bùi Quốc Thủy, trung đoàn phó Phùng Kim Tình… nhưng chạm tới các chi tiết, tác giả “đãi cát tìm vàng” hết sức cẩn thận, tìm cho ra những chi tiết, những sự việc gây ấn tượng thật mạnh.

Đây, một toàn cảnh xúc động về tấm lòng của bà con các bộ tộc Lào đối với các chiến sỹ tình nguyện Việt Nam: “Đêm nào thấy ánh lửa của các anh tìm hài cốt chấp chới trên núi, nhà chùa lại dóng chuông cho các chị, các mẹ hướng lên núi cầu mong hương hồn các liệt sỹ được an lành về đất Mẹ” (tr.20).

Đây, tội ác man rợ của lũ phỉ Vàng Pao và sự hy sinh thầm lặng của các chiến sỹ tình nguyện Việt: “Chúng lột truồng từng tù binh rồi cho lính chặt vát nhọn những cây nứa, sau đó xúm nhau nhắc từng người một , đặt đúng hậu môn vào đầu nhọn của cây nứa ấn xuống. Mũi nứa nhọn và sắc xuyên từ hậu môn lên cổ, nhô đầu ra miệng người bị hành hình. Tiếng kêu rú cùng với máu phụt ra làm xám ngoét cả cánh rừng” (tr.73).

Đánh lớn vào căn cứ Sảm Thông, có xe tăng phối thuộc, phải mở đường cho xe tăng đi. Nhiều phương án. Một cô kỹ sư tên Thái được Bộ giao thông cử sang. Để xích xe tăng vượt được khúc dốc đất xốp, phương án của cô kỹ sư Thái đã được chấp nhận: mỗi chiến sỹ chuẩn bị 30 cọc gỗ đầu nhọn, dài 25 phân để đóng xuống đường, như nêm cối xay. Xe tăng vận hành trong đêm.

Và đây là cảnh tuyệt vời nhất: “Thái hất mặt: – Lính gì mà gấu thế. Không tán nữa. Tắt đèn. Tôi cầm mảnh dù trắng dẫn đường. Lên xe đi. Anh lính xe tăng đến trước mặt Thái: -Này cô em, anh nói thật, em xắn quần lên. Xắn lên bẹn thì càng tốt. Tốt nhất em tụt bỏ quần, mặc cái sịp cũng được.- Không nói vớ vẩn nữa. Anh lính xe tăng bỗng nắm lấy tay Thái: -Các anh không gấu, không vớ vẩn. Các anh là người. Các anh là đàn ông.Không phải anh không nhìn thấy mảnh dù trắng em cầm. Nhưng khi thấy cặp đùi của em, bọn anh quả cảm hơn. Một cô gái đẹp lăn vào bom đạn, đứng không gì che chắn, xắn quần lên bẹn dẫn cho bọn anh lên dốc kia kìa. Noi theo em, dù đêm tối, bọn anh sẽ đưa xe vượt qua cao điểm”.

Ở đâu đó, có một đoạn tả cảnh như thế này: “Cánh Đồng Chum dường như khước từ ký ức chiến tranh, nó chỉ giữ những thảm cỏ mượt mịn suốt mùa mưa và ngả vàng thau vào cuối mùa khô. Máu từng ngấm xuống dưới những lớp cỏ này. Tôi bới, thấy bộ rễ có màu trắng tua tủa sọc vào đất”. Tác giả đang nói với chúng ta hay nói với chính mình?

Từng trải, am tường, sức tưởng tượng khoáng hoạt, dấu ấn tay nghề cao cường… từng ấy, hay kể thêm điều gì nữa đây tạo nên sức sống của “Rừng hẹn”?

Chiến tranh đã qua đi gần nửa thế kỷ. Dòng viết và sửa cuối cùng tác giả ghi “ngày… tháng 5 năm 2020”. Tức là cũng đã bước qua thập niên thứ 2 của kỷ nguyên nhiều sự rối ren, nhiều đảo lộn giá trị, nhiều âu lo, phấp phỏng và đại dịch covid và khủng hoảng kinh tế thế giới… Làm sao đây trong bối cảnh đó mà vẫn giữ được nguồn cảm hứng trong trẻo, thẳng thớm, đúng góc phương vị với những hy sinh thầm lặng, những chiến công hiển hách và gương mặt rạng ngời đã từng có thật trong quá khứ của dân tộc này, đất nước này…

Theo ý chúng tôi, đây mới là chỗ bám chân, nơi những bộ rễ có màu trắng tua tủa sọc vào đất để tạo nên những trang viết xuất sắc của tiểu thuyết “Rừng hẹn”.

T.P Hồ Chí Minh, rằm tháng Giêng, Tân Sửu

T.H

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm