TIN TỨC

Rung ngân khát vọng sống của con người

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-12-24 08:24:01
mail facebook google pos stwis
1585 lượt xem

TRẦN MAI HƯỜNG

(Đọc Những ngọn khói về trời của Bùi Phan Thảo, NXB Đà Nẵng 2022)

Thật khó khi viết một trường ca về đại dịch COVID -19, khó nữa là viết về con người, đất nước và nhân loại đã vượt qua đại dịch ấy ra sao, trên đường đi sai đúng thế nào? Đây có lẽ là sự dấn thân của nhà thơ Bùi Phan Thảo trước trách nhiệm của một người cầm bút và cao hơn hết là trách nhiệm của một công dân TP HCM trong những ngày đất nước gian nan ấy…

Trong “Những ngọn khói về trời”, nhà thơ Bùi Phan Thảo kể về những ngày tháng không thể nào quên của nhân loại và của mỗi người. Trường ca “Những ngọn khói về trời” chất chứa những cảnh ngộ bi ca trong tráng ca về lòng nhân, về đất nước, về nhân loại, về những điều không tưởng giữa địa ngục và thiên đường mà loài người đã vượt qua...

“Còn nhiều góc khuất tối tăm trên địa cầu này/ người nghèo không có quyền lựa chọn/ quyền sống bình đẳng cũng là hàng xa xỉ phẩm/ nhưng con virus dã man là thứ vô tri/chúng tấn công con người bất kể giàu nghèo/ bất kể màu da/ chúng nhấn chìm nhân loại xuống đáy đau thương/ những xác thân đã mất linh hồn/ lạnh lẽo nằm bên nhau chờ đưa đi siêu thoát”… (chương “Nhân loại bàng hoàng”)

Phải chăng sự khái quát đó làm cho con người thêm bi quan, mất phương hướng để rồi buông xuôi? Không! Ta hãy lắng nghe:

“Chỉ một đêm thôi/ mà đêm nay cũng không phải là đêm/ chỉ là ngày nối dài qua trong chập chờn giấc ngủ/ bao người như tôi không ngủ/ ngày mai, lệnh phong tỏa đầu tiên.../ điều ước lệ trở nên hữu dụng/ sợi dây như bức tường để giữ chân nhau (Chương “Đêm trước ngày phong tỏa”)

Có thể thấy Bùi Phan Thảo viết “Những ngọn khói về trời” như một thôi thúc, không thể không viết với cảm xúc tuôn trào. Đại dịch COVID-19 như một “đại hồng thủy” tràn qua đời sống nhân loại thời hiện đại, gây ra những thảm họa đau thương. Không ai có thể dửng dưng trước biến cố lớn lao này khi đại dịch tràn vào từng nhà, ai cũng có thể là nạn nhân của nó và từng ngày từng giờ, giữa lằn ranh tử sinh mỏng manh, ai cũng nhận ra lẽ vô thường của cuộc sống.

Trong cuộc chiến này, lúc dịch khởi phát, hoành hành, chưa biết kết cục ra sao nhưng vẫn phải kiên cường, phải có lòng tin, phải đoàn kết, vững tâm mới có thể chiến thắng đại dịch. Trăm triệu người dân Việt đã thấy được quyết tâm của chính quyền, của đất nước luôn đặt sinh mạng của con người, của tất cả mọi người lên trên hết. Lúc này không phải là lúc hô khẩu hiệu, mà là lúc phải ra tay hành động... Dù đâu đó vẫn bất ngờ, bị động, lúng túng… Bùi Phan Thảo đã đặc tả về Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh trong những ngày tháng phong tỏa gian nan ấy:

“Thành phố vắng hoe/ như giấc ngủ kéo dài của người dậy muộn/ tiếng rao đêm đã chìm sâu sau những bức tường/ Đã mấy tháng rồi dịch giã leo thang/ những đồng tiền còm cõi bay đi theo bàn tay trắng (Chương “Đêm trước ngày phong tỏa”)

Rõ ràng trong sự bi ai của rất nhiều số phận, của rất nhiều cảnh ngộ đáng thương, ta vẫn thấy những nỗ lực phòng chống dịch, cả hệ thống chính trị vào cuộc. TP HCM là nơi đại dịch lan nhanh nhất, rộng nhất cả nước, người dân TP HCM gồng mình, kiên cường chống dịch:

 “Sài Gòn chưa bao giờ lặng im như thế/ Sài Gòn đau một phần thân thể/ oằn mình chống chọi tang thương/ đã từng là thành phố 24 giờ không ngủ/ nay im lìm quạnh quẽ giữa đêm rơi”…

“Sài Gòn đau trời đất cũng đau/ những chùm ca bệnh dồn vào hẻm nhỏ/ khăn tang trắng từ đầu con phố/ nước mắt vòng quanh ra đến bờ kinh/ Biết mỏng mảnh lằn ranh tử sinh/ mà vẫn nhói lòng con số mỗi ngày trên báo/ tôi ngồi lặng trước tin bài từng đêm giông bão/ ngoài kia gió quật mưa gào/ nước mắt khô lại đầy như biển/ sóng dâng lên trôi hết những vì sao… (Chương “Sài Gòn đau một phần thân thể”)

Nhà thơ cũng như bao người dân nước Việt cũng trải qua nhiều cung bậc cảm xúc trong những tháng ngày đó. Lúc hoang mang, lo lắng, chưa biết diễn biến dịch ra sao, tác hại thế nào lên cuộc sống, sinh mạng cá nhân, gia đình và cộng đồng; lúc vui mừng, lạc quan trước những diễn biến khả quan hơn, dịch bệnh từng bước được đẩy lùi, cuộc sống từng ngày trở lại bình thường… Mỗi ngày ai cũng nhìn ra, nhìn quanh, mong những con số ca bệnh, số người lìa đời giảm đi; mong những bữa cơm không còn nghẹn lại khi hay tin một người thân đã không thể vượt qua, thương những em bé thơ dại phải chịu cảnh mồ côi.

Trong gian khó, khổ đau luôn xuất hiện những tấm lòng, mà trước nhất là những y bác sĩ trên tuyến đầu chống dịch:

Những đứa con của chúng tôi/ mai này sẽ nói về ngày chúng lớn lên vắng vòng tay cha mẹ/ với niềm tự hào rạng rỡ/ không có lựa chọn hay chối từ/ không còn thời gian để lo âu có thể mình nhiễm bệnh/ khi vào cuộc đua giành mạng sống cho người/ những toan tính thiệt hơn là chuyện xa xôi/ sau chiếc áo blouse là con tim ấm lời thề Hippocrates/ những chuyến lên đường vì bình yên đất nước/ luôn có bóng thiên thần trong nỗi nhớ thương/ các con cho mẹ cha chân cứng đá mềm/ để về hôn má phính tóc tơ tột cùng hạnh phúc…(Chương “Sài Gòn đau một phần thân thể”)

Cảm xúc lắng sâu, cuộn chảy thành câu chữ. Những dòng thơ thể hiện sự kiên cường của người dân TP HCM chống chọi, vượt qua đại dịch. Nhiều người, nhiều ngành và cả nhiều văn nghệ sĩ cùng chung tay:

“Chị nhà văn vét gạo nhà cho em và bà con lối xóm/ lên mạng gọi bạn bè người quen góp sức góp công/ các nữ nhà văn kết nối xin gạo đem cho dân/ đến từng nhà từng hẻm/ thấy người nghèo mừng mà mình tủi vì thương/ chỉ tấm thẻ nhà văn đi xuyên qua thành phố/ các trạm cũng cho qua vì hiểu tấm lòng lành/ Cũng biết xông pha thì sẽ nguy nan/ lỡ có mệnh hệ gì ai lo khi nhiễm bệnh/ nhưng nằm nhà lại cồn cào nghĩ từng cảnh ngộ/ thôi dấn bước ra đường quên cả hiểm nguy... (Chương “Thơm mãi những bàn tay”)

Tất cả đều thể hiện những tấm lòng vì mọi người, vì cộng đồng, vì thành phố thân yêu, vì cả nước để vượt qua đại nạn này. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, câu thành ngữ ấy mãi đúng với con người và cảnh ngộ xưa nay. Vượt lên tất cả, đó là tình người, tình đồng loại, đồng hương... cùng ý chí và nghị lực sống. Bùi Phan Thảo đã trộn mình vào mọi người, mọi hoàn cảnh để quan sát, để cảm nhận mà hóa thành thi ca. Ý thức nghề nghiệp đã tạo ra những ngân rung vươn mình:

“Những bàn tay của triệu người dân Việt/ qua những cách ly đợi phút sum vầy/ nhận ra nhau sau khẩu trang nói lời bằng đôi mắt/ và nụ cười tỏa sáng giữa hồn nhau/... sẽ có ngày hân hoan nụ cười nước mắt/ đất nước yên bình thơm mãi những bàn tay”…

Tất cả đã gói gọn, đã đọng lại một điều như là chân lý: “Cây kết trái cùng bóng râm tỏa rộng/ thành phố phương Nam bừng sáng nghĩa nhân… (Chương: “Thơm mãi những bàn tay”)

Cuối cùng tiếng nói đanh thép cất lên như một lời tuyên chiến của lương tri với những tội ác do chính con người gây ra:

“Đại dịch đặt loài người trước sự lựa chọn/ sống hay chết/ chết ra sao và sống ra sao/ lương tâm không thét gào/ không lên giọng nói điều răn dạy/ song lũ gian manh đừng hòng bỏ chạy/ các người không né tránh được đâu/ làm điều ác phải trả bằng chuyện ác/ đi ngược dòng đời làm trái nghĩa nhân/ đừng hòng mơ giấc ngủ ngon không mộng mị/ đối diện những mặt người nhàu nhĩ/ những khổ đau chất ngất của nhân quần/ các người không thể sống bình yên/ dân đau khổ tang thương/ các người táng tận làm giàu/ tiền chảy vào từng túi tham như suối/ các người có thấy màu tiền đỏ như máu/ đỏ như mặt trời/ sẽ nhấn chìm các người/ cùng tội lỗi không bao giờ gột được… (Chương “Đối diện”).

Qua tập trường ca, người đọc cả nhận rõ hơn về khí chất, tình cảm của người Việt. Đau thương nhưng không bi lụy, vẫn lạc quan, mạnh mẽ, kiên cường làm lại cuộc sống sau những mất mát. Biết bao sinh linh đã từ giã cõi đời một cách không ngờ khi đại dịch tràn qua, những ngọn khói đưa linh hồn họ bay đi. Qua đại dịch, toàn nhân loại và mỗi con người cũng sáng rõ thêm nhiều điều. Ai cũng có câu chuyện về COVID-19 cùng những cảm nhận về COVID-19 của riêng mình. Song không khó nhận ra rằng, đại dịch đã thay đổi lối sống, nếp nghĩ của con người. Ai cũng thấy không gì tốt đẹp hơn đời sống; không gì quý giá như mạng sống. Hãy sống với nhau cho thật đúng nghĩa làm người.

“Những ngọn khói về trời” cũng chuyển tải thông điệp về tình người, niềm tin, ý chí kiên cường, về nhân nghĩa truyền đời sâu sắc. Chọn thể loại trường ca, Bùi Phan Thảo đã chuyển tải được những tâm tư, ước nguyện, những giãi bày về cuộc sống và sẻ chia tình cảm của đồng loại, đồng bào; rung ngân những khát vọng sống của con người…

(Bài đăng Văn nghệ số 52, ngày 24/12/2022).

Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin nồng nhiệt chúc mừng nhà thơ Bùi Phan Thảo với trường ca "Những ngọn khói về trời" vừa được trao Giải thưởng Văn học năm 2022 của Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minhheart

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm