TIN TỨC

Tư tưởng nhân dân anh hùng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-09-01 22:26:53
mail facebook google pos stwis
236 lượt xem

1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”

Nhà văn Trần Bảo Định

Với trường ca Mặt đường khát vọng (Nxb Giải phóng, 1974), nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã định nghĩa đất nước trong các chiều kích khác nhau, từ đó khẳng định quan niệm “đất nước của nhân dân” và trách nhiệm của nhân dân đối với đất nước. Với Đất Việt trời Nam liệt truyện, Trần Bảo Định cho thấy đất nước chính là nhân dân. Nhân dân là chủ thể và nền tảng của đất nước. Cơ hồ, Nguyễn Khoa Điềm lấy nước làm trọng, Trần Bảo Định lấy dân làm gốc. Hai nhãn quan tương hỗ biện chứng. Nguyễn Khoa Điềm nhìn từ dân thấy nước, Trần Bảo Định nhìn từ nước thấy dân. Vì thế, Mặt đường khát vọng là lịch sử thiêng liêng của đất nước, còn Đất Việt trời Nam liệt truyện là lịch sử oanh liệt của nhân dân. Mặt đường khát vọng là trang quốc sử, còn Đất Việt trời Nam liệt truyện là trang dân sử trong văn chương. Bởi “được nuôi dưỡng trong bầu sữa dân gian, nhà văn Trần Bảo Định mang lại góc nhìn riêng về lịch sử Nam Bộ xưa nay: liệt truyện của người bình dân hay dân gian triết và dân gian sử”. Theo đó, hình tượng nhân dân anh hùng hiện lên trang văn từ chính góc nhìn của người lao động bình dân.

2. Nhìn vào lịch sử dân tộc, bạn đọc dễ dàng nhận thấy hịch khí đấu tranh yêu nước vốn có trong lòng người Việt. Tinh thần yêu nước và bảo vệ đất nước đã trở thành bản sắc giống nòi. Kế thừa truyền thống đó, Đất Việt trời Nam liệt truyện của Trần Bảo Định, với quy mô chiều kích rộng lớn về không-thời gian, không chỉ hàm chứa quan niệm đất nước của nhân dân mà còn phát triển thành tư tưởng nhân dân anh hùng. “Nhân dân anh hùng” trên trang văn Trần Bảo Định không đơn thuần là một quan niệm mà còn biểu hiện ra như hệ thống tư tưởng. Bởi tư tưởng này phủ bóng lên trang viết và tỏa ra bóng mát trên nhiều phương diện văn hóa, lịch sử, xã hội… Cần khảo cứu toàn diện hơn về tư tưởng nhân dân anh hùng, nhưng về cơ bản tư tưởng này là kết quả hợp nhất của tinh thần thời đại và tinh thần dân tộc (nhân nghĩa, nhân đạo, nhân bản). Chính vậy, Đất Việt trời Nam liệt truyện vừa biểu hiện dòng sinh mệnh văn hóa dân tộc vừa là sự kế thừa và phát huy tinh hoa văn hóa Việt trên vùng đất mới. Qua tuyển tập này, bạn đọc sẽ nhận ra âm hưởng địch khái của Nam quốc sơn hà, hịch khí của Dụ chư tì tướng hịch vănnam nhi chi chí của Thuật hoàinhân nghĩa chi cử của Bình Ngô đại cáo, và tuyên bố đanh thép “đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” trong lời truyền chống quân Thanh xâm lược. Trần Bảo Định cho thấy nghĩa khí đó tiếp tục lan tỏa, trổ hiện ra trên mảnh đất Nam Bộ bằng cách “liên văn bản” với Kê kinhVăn tế nghĩa sĩ Cần GiuộcMinh Tân tiểu thuyết… Đẹp thay! Tất cả hịch khí đó đều được hàm chứa trong câu ca dao dung dị của xứ sở: Tham chi đồng bạc con cò/ Bỏ cha, bỏ mẹ theo phò Lang Sa. Có thể nói, tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện là nỗ lực kết dệt, tôi luyện và khêu sáng truyền thống anh hùng của giống nòi, không chỉ trong lịch sử hơn ba trăm năm của đất Đàng Trong, mà còn gợi nhắc đến lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc Việt.

3. Để xây dựng tư tưởng nhân dân anh hùng, trang văn của Trần Bảo Định khởi đi từ tinh thần dân tộc với cốt lõi gồm có hành động nhân nghĩa, quan niệm nhân đạo và nền tảng nhân bản. Như sự tiếp nối “nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân”, những truyện ngắn như Phận má hồngHỡi ai còn nhớ! (tập Thượng) khắc họa xúc động bóng hình hai vị công nữ Ngọc Vạn, Ngọc Khoa trên tiến trình lịch sử mở mang bờ cõi. Qua tuyển tập này, bạn đọc sẽ hiểu sâu sắc hơn quan niệm “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, cũng chính là quan niệm lấy dân làm gốc. Bởi dân có thể nâng thuyền cũng có thể lật thuyền. Sau nữa, tinh thần “điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo” được cụ thể hóa hết sức khẳng khái qua hình tượng “dân binh Gia Định chủ động đánh giặc, không trông cậy vào quân triều đình rúc cổ rụt đầu trong Đại đồn” (tập Trung, tr.19). Âu Dương Lân nói: “Thà sống ngắn có lợi cho nước cho nhà, vẫn hơn sống dài hại nhà hại nước” (tập Trung, tr.103). Câu nói hệch hạc chẳng hoa mĩ đã biểu hiện bộc trực nghĩa khí dân đen. Hay nói như cụ Đồ Chiểu: Nhớ câu kiến ngãi bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng (Lục Vân Tiên). Đó chính là nhân nghĩa Nam Bộ vốn phổ truyền khắp miền sông nước Cửu Long giang.

Nhân nghĩa lại dựa trên nhân đạo, biểu hiện thành vẻ đẹp tình thương rộng lớn. “Tiếng chuông ngày rằm ở chùa Vĩnh Tràng vang lên giữa trưa đầy hương bưởi làng Mỹ Phong, một vùng đất dân tình trọng lễ nghĩa và từ rất lâu, họ chịu ảnh hưởng giáo dục ở những nhà nho yêu nước, như Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Phan Hiến Đạo, Phan Văn Trị, Học Lạc...” (tập Hạ, tr.53). Nho đạo ấy cần được xác định như nhân đạo dân gian của người bình dân, và nhân đạo này ảnh hưởng đến lối học của giới trí thức, góp phần tạo nên biểu hiện của học phong phương Nam. Mà nếu nhìn rộng hơn, ta sẽ thấy dòng mạch trao truyền chí ít khởi đi từ lối học “tri ngôn dưỡng khí” trọng tâm ở chữ Thành của Sùng Đức tiên sinh Võ Trường Toản. Trong đời sống bình dân, nhân đạo ấy lấy tình thương làm cốt lõi. Thương nên có thể bỏ qua. Chuyện Hai Siêu Đất (tập Hạ) vừa tình thương trong đạo vợ chồng, vừa tình thương dành cho tha nhân. Sở dĩ thương vì thấu cảm, nhờ thấu cảm nên có thể đặt mình ở giữa mọi người. Bấy giờ có thể thể tất! Tình thương và khí khái như thế có sức cảm hóa to lớn. Điều này có thể thấy trong truyện ngắn Người phụ nữ ấy (tập Hạ). Sau câu nói “Tụi bây là quân cướp nước và bán nước, nhứt định sẽ bị những người cộng sản chúng tao đánh đổ” và sự hi sinh của Nguyễn Thị Bảy (tập Hạ, tr.181), Đốc phủ Phan Văn Chương bỏ vinh hoa phú quý vào chiến khu cùng nhân dân chống thực dân Pháp. Nhân đạo và khí khái bình dân có sức mạnh lay động lòng người. Theo đó, Đất Việt trời Nam liệt truyện, với tư tưởng nhân dân anh hùng đậm đà tinh thần dân tộc, làm rõ nhãn quan đạo đức bình dân miền sông nước Cửu Long. Nhãn quan đạo đức ấy bền vững đẹp tươi trong sinh hoạt thường ngày, trong lao động sản xuất và đấu tranh bảo vệ đất nước.

4. Bên cạnh tinh thần dân tộc, tư tưởng nhân dân anh hùng của tuyển tập còn được nung nấu trong tinh thần thời đại. Ở hồi thứ nhất từ năm 1620, tinh thần thời đại biểu thị qua việc mở cõi, hỗn dung văn hóa, khẳng định dấu ấn dân tộc Việt trên đường tiến về phương Nam. Hồi thứ hai từ năm 1859 đến hồi thứ ba từ năm 1900, tinh thần thời đại đối diện làn sóng xâm lược, thực dân hóa của thực dân phương Tây, càng không ngừng thay đổi để thích ứng với không khí thời đại, góp phần thúc đẩy vận động đấu tranh yêu nước. Từ cuộc đấu tranh của những nhà nho từ quan về với nông dân nghĩa sĩ chống giặc nửa sau thế kỉ XIX đến vận động “Minh Tân” phát triển toàn diện xã hội tạo tiền đề cho đấu tranh chống thực dân Pháp đầu thế kỉ XX, bạn đọc sẽ nhận ra dịch chuyển hệ hình tư tưởng đấu tranh yêu nước từ thế hệ của Trương Định, Đỗ Trình Thoại, Trần Xuân Hòa, Nguyễn Hữu Huân, Âu Dương Lân, Võ Duy Dương, Phan Văn Đạt, Nguyễn Trung Trực… đến thế hệ của Đặng Thúc Liêng, Trần Chánh Chiếu, Huỳnh Đình Điển, Nguyễn An Khương, Nguyễn An Ninh… và không khí đấu tranh yêu nước sôi nổi ở làng Phước Lại quận Cần Giuộc tỉnh Chợ Lớn (nay là tỉnh Long An) qua hình tượng người phụ nữ kiên trung bất khuất Nguyễn Thị Bảy. Ở bót Pô-lô (thành phố Chợ Lớn), giặc phải khâm phục tôn gọi bà là Hoàng hậu đỏ. Ở khám Phú Mỹ, bà bị giam chung với Nguyễn Thị Minh Khai – cả hai đều mang án tử hình, bà được chị em tù gọi là bà Cố Hỷ. “Theo lịnh, cai ngục Toản dẫn chị Bảy giam chung phòng với chị Năm Bắc. Gặp lại, hai chị em rất vui mừng dù đang chung cùng cảnh ngộ bị giặc tuyên án tử” (tập Hạ, tr.189). Đúng như câu thơ của Nguyễn Thị Minh Khai: Vững chí bền gan ai hỡi ai/ Kiên tâm giữ dạ mới anh tài, người phụ nữ ấy xứng danh nữ anh hùng. Qua từng truyện ngắn, bạn đọc sẽ nhận ra sóng gió thời đại và tinh thần bất khuất của những thảo dân Nam Bộ xưa; đồng thời thấy vận động mau lẹ của trời đất con người phương Nam từ những ngày thân sơ thất sở khăn gói vào Đàng Trong cho tới khi giặc dữ tràn tới quê hương khiến cho: Bến Nghé của tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây/ Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng/ Nỡ để dân đen mắc nạn này? Câu hỏi của cụ Đồ Chiểu trong Chạy Tây còn tiếp nối trong Văn tế nghĩa sĩ Cần GiuộcBinh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;/ Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ. Trong khi quân binh vương triều ngó mặt làm ngơ thì những người nông dân anh hùng đã hưởng ứng lời kêu gọi chống ngoại xâm. Cho đến nửa đầu thế kỉ XX, ánh sáng cách mạng vô sản đã trở thành câu trả lời cho truy vấn của cụ Đồ Chiểu năm xưa, càng thổi bùng khí khái oanh liệt quả cảm của nhân dân Nam Bộ. Có thể thấy, từ nửa đầu thế kỉ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX, trọng tâm chính trị xã hội của đất nước đã xoay chuyển từ vương triều Nguyễn sang nhân dân cần lao. Đồng thời, bạn đọc cũng sẽ nhận thấy bước phát triển về ý hệ và đường lối đấu tranh cách mạng (từ chỗ chỉ là “dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ” đến thế hệ thanh niên cao vọng của Nguyễn An Ninh, và đỉnh cao là sự ra đời, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam). Từ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đến Đất Việt trời Nam liệt truyện là quá trình gìn giữ, trao truyền và phát huy sáng đẹp tư tưởng nhân dân anh hùng của người và đất Nam Bộ. Tế văn của Nguyễn Đình Chiểu đã dựng đài bất tử cho nghĩa sĩ vị quốc vong thân; liệt truyện của Trần Bảo Định đã tạc bia ghi công cho các anh hùng bình dân Nam Bộ.

5. Tựu trung, tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện là biểu tượng cho chủ nghĩa anh hùng của người lao động bình dân Nam Bộ qua các thời kì lịch sử khác nhau. Tuyển tập này còn là dân gian sử, hàm chứa dân gian triết, biểu thị dân gian tính và khí phách oanh liệt của đất và người Nam Bộ mến yêu. “Đất Việt trời Nam liệt truyện vì thế không chỉ là bản anh hùng ca của một cá nhân, một dòng họ, một vương triều, mà hơn hết là bản anh hùng ca của người bình dân Nam Bộ. Sử quan triều đại có thể bỏ qua song bao nhiêu anh hùng bình dân vô danh hẳn còn sống mãi trong tâm hồn người dân Nam Bộ về sau” (Lời Nhà xuất bản). Hào sảng, trượng nghĩa, khí phách là vẻ đẹp của những anh hùng vô danh xuất thân bình dân và trọn đời gắn bó bình dân. Qua những hình tượng như thế, trang văn bộc lộ tư tưởng nhân dân anh hùng. Đây là bài học quý giá cũng như món quà tinh thần mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc giúp cho thế hệ hôm nay và mai sau biết “hướng thiện”, “hướng thượng” và hun đúc hoài bão cuộc đời xứng đáng với người xưa. Một trận khói tan/ Nghìn năm tiết rỡ (Nguyễn Đình Chiểu).

Đà Lạt, tháng 6/2025

Võ Quốc Việt/VNQĐ

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm