TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư

Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
204 lượt xem

 Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.

Cô được biết đến với tập truyện mang tên Cánh đồng bất tận. Tập truyện nhận giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2006 và truyện ngắn cùng tên đã được chuyển thể thành phim điện ảnh năm 2010. Hiện cô vẫn sinh sống và làm việc ở Cà Mau.

Ở Nguyễn Ngọc Tư, tôi không giới thiệu nhiều về chị vì cái tên ấy từ lâu đã trở thành thương hiệu cho tác tác phẩm được xuất bản. Cái tên trở thành một hiện tượng văn học Việt Nam hơn hai thập kỷ gần đây nhất không chỉ trong và ngoài nước, nhưng hình như chị không hề quan tâm đến điều đó. Viết như một bản năng, viết để ý tưởng được tuôn trào rồi để mặc nó muốn trôi về đâu, tấp vào bến bờ nào cũng được. Trong hành trình văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, chị để con chữ nó tự “Trôi”. “Em thả trôi một mình. Nhưng những gì còn sót lại của một cù lao phân rã chẳng là bao. Vài ba mái nhà lấp ló trên mặt nước, một vài cái lu, những rẻo đất đủ rộng cho một người ngồi thì cũng có, lại trôi đờ đẫn đằng xa. Mãi mới có mảnh trất trôi gần, đúng lúc nó rùng mình nứt làm hai… Giờ thì mạnh ai nấy trôi.”(Trôi – Nguyễn Ngọc Tư).

Khi in và phát hành tập truyện ngắn “Đảo” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ có viết lời giới thiệu: “Những truyện ngắn, không thể ngắn hơn. Có thể nói đó là những bài thơ viết bằng văn xuôi về số phận của những con người luôn đấu tranh trong tuyệt vọng để được nhìn thấy… Những truyện ngắn cho thấy dường như Nguyễn Ngọc Tư đang ra khỏi hiện thực của những cánh đồng để tìm đến vùng hỗn mang tâm trí con người”. Một nhận xét khác làm người đọc có thể thấy được cách cấu tứ truyện của “Đảo”: “Hơn một nửa Đảo là những truyện ngắn dưới 2000 chữ, nội dung xoay quanh chuyện mất mác, tổn thương và những cuộc kiếm tìm niềm vui đơn giản trong cuộc sống: Yêu thương, thỏa mãn những mong ước và nhu cầu được tỏa sáng… Là tô đậm nỗi cô đơn của con người bằng nhiều vết mực khác nhau. Là tiếng thét câm của những con người không được nhìn thấy, nghe thấy…”.

Cũng như nhiều tập truyện ngắn khác trước đây của Nguyễn Ngọc Tư, phụ nữ luôn là nhân vật trung tâm của chị qua những câu chuyện kể, họ có thể là người con gái lạc lõng xua đuổi, một người vợ chịu đựng những thiệt thòi bất hạnh, nhẫn nhục trước những oan nghiệt của cuộc đời, người mẹ với những vết chai sần khổ nạn, người đàn bà luôn khao khát được yêu thương… nhưng chung quy tất cả đều tan rã như bọt xà phông, ảo ảnh chìm trôi đưa đẩy số phận họ đến một bến bờ vô định. Người đọc có thể cảm nhận số phận nghiệt ngã của các nhận vật nữ qua từng truyện ngắn của cô nhưng để bước vào thế giới của các nhân vật nữ đó, mấy ai có thể tường tận như Nguyễn Ngọc Tư cho được.

Tôi đọc nhiều tác phẩm của các nhà văn viết về người phụ nữ nhưng chưa bao giờ tôi cảm nhận được cái không khí tù túng, quánh đặc đến nghẹt thở trong tâm trạng mình qua ngòi bút miêu tả về họ của Nguyễn Ngọc Tư, ở một góc độ nào đó chị đã giúp ta khám phá, đi sâu vào nội tâm của người phụ nữ qua những lát cắt, những chiều kích rộng hẹp của không gian và thời gian khác nhau.

Tập truyện gồm 17 truyện ngắn với độ dày khoảng 146 trang, có thể nói khá mỏng so với dung lượng mà Nguyễn Ngọc Tư muốn truyền tải qua đó. Mở đầu là “Biến mất ở thư hiên”: một câu chuyện có đôi chút ma mị khó tin nhưng ta chỉ cần chú tâm đến cốt chuyện: Sinh đột nhiên biến mất sau một kệ sách ở một thư viện chỉ sau một một cái nhìn lơ đãng của Hảo về một hướng khác và từ đó không còn xuất hiện và cô mải miết đi tìm. Tìm chỉ để hỏi cho ra lẻ: “…sao biến mất kỳ vậy, nếu chán nhau thì cứ nói thẳng, từ giả rồi đường ai nấy đi, sao lại phải âm thầm chạy trốn”, dù bên cạnh Hảo đã có người tình nguyện thay thế chỗ của Sinh để rồi con người ấy lại biến mất kỳ lạ như Sinh “…vào khe của những cuốn sách, náu trong thứ bóng tối trong veo”. Tâm trạng Hảo lúc này ra sao khó ai đoán được. Đến thư viện để tìm hình bóng của Sinh hay nhân vật “Tôi” nào ai biết được. Ở “Xác bụi” thể hiện một tâm cảnh khác của người phụ nữ. Dù đã có chồng con nhưng bên tai vẫn luôn văng vẳng nghe lời gọi của người bạn cũ: “Đừng quên anh, Dịu!”. Thắt thỏm, kiếm tìm, nhờ ông đồng bà cốt vẽ cho con đường đi tìm thân xác ở chốn bụi bờ hoang bãi nào đó, để rồi sau giây phút đó chợt bàng hoàng nhận ra và “tự hỏi mình đã làm chi cuộc đời mình?”. “Đảo” lại đẩy thân phận người đàn bà trôi dạt ra khơi, người phụ nữ lại trở thành gái bán hoa cho những ai có tiền, lên hòn Trống làm vợ một đêm cho một người đàn ông mù vì được tiền. Ở nơi này cô tên là Đào, ở một nơi khác cô tên là Mỹ Châu đến độ bây giờ cô không còn biết tên mình là gì. Cuộc sống phải chăng chỉ là trò đùa của số mệnh đối với cô? Người đàn bà tên Lý trong “Sổ lồng” lại như nửa tỉnh nửa mê đang sống trong một thế giới khác: “…con Lý hùng hồn cầm cây mác vót vào giữa tim sông, sau khi chém nát mặt nước kiệt ròng, băm vằm dấu cặn bùn chiếc ghe để lại. Chỗ đó cách nhà Lý gần hai mươi cây số. Mặc kệ cây dao lút cán trong bùn, chị nhẹ nhõm thả tàu ngược về. Tĩnh lặng tràn trề, chị trôi ngửa như xác chết, mắt chong rờ rỡ bóng mây. Hơn nửa đời lí nhí cúi mặt, Lý bỗng nhìn thẳng vào trời không run sợ mảy may.”.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

“Coi tay vào sáng mưa” kể về người đàn bà sống nghề bói toán đã để lạc mất con mình trong một ngày ở chợ Sương, vì mải mê đi theo đường chỉ tay như mê lộ của khách, để rồi những tháng năm dài dằng dặc kiếm tìm cho đến một ngày nọ, người lạ đưa cánh tay bị chặt đứt đến nhờ cô xem bói. Nhìn dấu vết trên cánh tay cô biết là “nó”. Người lạ lạnh lùng hỏi: “Đàn em tôi dặn hỏi kỹ, nó hỏi có phải vào tù nhiều lần không, hay chỉ ở một lần dài cho đến chết? À, nó còn hỏi chẳng may kêu án tử, thì nó bị bắn hay tiêm thuộc độc?”.  Trời ơi! Nó trở về trong hoàn cảnh này sao? Sau mỗi câu hỏi người đàn bà có cảm giác như mình vừa bị phạt một nhát vào người, rúm ró, gục ngả. Còn truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ” kia mới đáng nói nhiều hơn nữa, cốt chuyện được chuyển thể thành kịch bản phim và đạt được giải thưởng Cánh diều vàng năm 2023, lại là một câu chuyện không hề có những diễn biến tâm lý đầy kịch tích. Câu chuyện được kể từ người phụ nữ hàng xóm – cũng là bạn của vợ chồng Nhàn, nhân vật chính trong câu chuyện. Người phụ nữ tên Nhàn sống u uất, lặng lẽ trước những con cuồng nộ không đầu không đuôi của anh chồng, mỗi lần phật ý lại lên cơn “đốt nhà”. Cái tổ ấm ấy bị đốt cháy không biết bao nhiêu lần, sau mỗi lần đốt căn nhà được cất lại đến nỗi không có nơi ở nào tồi tàn hơn được nữa. Mỗi lần đốt nhà, trong mắt anh chồng chỉ có anh lửa không có Nhàn. Anh ta say mê ánh hào quang rực rỡ của lửa. Lần này cũng thế, nhưng lần này Nhàn không lách mình ra khỏi ngọn lửa, Nhàn chọn ở lại. Có lẽ khi cuộc đời bị bủa vây không lối thoát, với người kia ngọn lửa là ánh hào quang chói lọi nhưng với người khác lại là bóng đêm giá băng vĩnh hằng, họ phải tự chọn hủy diệt cuộc đời mình và phải chăng đó cũng là lối thoát duy nhất cho cả hai số phận?

Đánh giá về tập truyện ngắn Đảo, Nguyễn Hồng Nhung có một nhận xét khá tinh tế và thú vị: “Đọc Đảo của Nguyễn Ngọc Tư giống như ngồi trên một chiếc ca nô hỏng, lúc lao vút, lúc lại ì ạch men theo những luồng lạch của lòng người để chạm đến sâu thẳm tam hồn… 16 truyện ngắn là thế giới của những nhân vật bị bỏ rơi, mất mát, cay đắng bẽ bàng luôn mưu cầu hạnh phúc đơn sơ, trần tục nhưng không đạt được. Chúng đan cài vào nhau như một mạng nhện rối rắm, những phận người bị mắc kẹt giữa những sợi tơ ảo ảnh không thể vùng thoát ra được.”

Còn Hạ Băng nhận xét con chữ của Nguyễn Ngọc Tư, ta có thể nghe, ngửi, chạm tay vào được: “Đến với tập truyện ngắn Đảo của Nguyễn Ngọc Tư, bạn đọc nhận được những cảm xúc chân thật, gần gũi nhất, hòa mình vào những câu chuyện của tác giả, với những câu từ không quá hoa mỹ, kết hợp với lối tả thực, nhẹ nhàng đưa bạn đọc lên con thuyền lênh đênh sóng chữ về miền Tây sông nước, như là được nghe thấy, được ngửi thấy, được chạm tay vào từng chi tiết trong tác phẩm.”

Với Hoài Nam trong bài viết: “Nguyễn Ngọc Tư: Tiếng nói nữ quyền” nhận xét chị ở góc độ đấu tranh cho bình đẳng giới: “…Và sự bất bình đẳng giới cứ thế tiếp diễn, cho đến lúc Tư nói ra. Tư nói ra, như là nói hộ những người phụ nữ đã chịu sự câm nín truyền đời, những người phụ nữ mang kiếp vong thân bởi nỗi không còn cái bản ngã tự trị. Tư nói ra, và nếu vì thế mà cho rằng Tư là một nhà văn nữ quyền, thì đây là một văn chương nữ quyền rất ít thấy trong văn học Việt Nam hiện đại: nữ quyền mà không cần đến diễn ngôn thể xác, nữ quyền gần như phi tính dục.”

Vì sao Nguyễn Ngọc Tư lại đặt tên tập truyện ngắn này là Đảo? Chúng ta không thể biết nếu tự tác giả không khơi gợi một điều gì đó cụ thể. Ở các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chị thường buông lửng cái kết mặc cho ai hiểu hay suy luận theo chiều hướng nào cũng được. Cô quăng nó ra giữa dòng đời để người đọc đón nhận và muốn trôi đi đâu thì trôi. Những nhân vật cô đề cập đến phần lớn là phụ nữ sống ở những miền quê, những thân phận bọt bèo, xế chiều lẻ bóng, các mẹ các chị… với những thói quen, cách ăn cách ở cách sống thể hiện trong ngôn ngữ bình dị đậm chất Nam Bộ. Thân phận bé nhỏ, sự cơ cực vì thiếu hiểu biết và những khát khao hạnh phúc giản dị luôn cháy bỏng của họ luôn xúc động trong tình yêu thương đồng cảm.

L.T.V

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm
Tác giả trẻ chinh phục cuộc thi Thơ Hay!
Bài viết của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn
Xem thêm