TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư

Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-06-05 15:01:51
mail facebook google pos stwis
3890 lượt xem

 Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.

Cô được biết đến với tập truyện mang tên Cánh đồng bất tận. Tập truyện nhận giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2006 và truyện ngắn cùng tên đã được chuyển thể thành phim điện ảnh năm 2010. Hiện cô vẫn sinh sống và làm việc ở Cà Mau.

Ở Nguyễn Ngọc Tư, tôi không giới thiệu nhiều về chị vì cái tên ấy từ lâu đã trở thành thương hiệu cho tác tác phẩm được xuất bản. Cái tên trở thành một hiện tượng văn học Việt Nam hơn hai thập kỷ gần đây nhất không chỉ trong và ngoài nước, nhưng hình như chị không hề quan tâm đến điều đó. Viết như một bản năng, viết để ý tưởng được tuôn trào rồi để mặc nó muốn trôi về đâu, tấp vào bến bờ nào cũng được. Trong hành trình văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, chị để con chữ nó tự “Trôi”. “Em thả trôi một mình. Nhưng những gì còn sót lại của một cù lao phân rã chẳng là bao. Vài ba mái nhà lấp ló trên mặt nước, một vài cái lu, những rẻo đất đủ rộng cho một người ngồi thì cũng có, lại trôi đờ đẫn đằng xa. Mãi mới có mảnh trất trôi gần, đúng lúc nó rùng mình nứt làm hai… Giờ thì mạnh ai nấy trôi.”(Trôi – Nguyễn Ngọc Tư).

Khi in và phát hành tập truyện ngắn “Đảo” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ có viết lời giới thiệu: “Những truyện ngắn, không thể ngắn hơn. Có thể nói đó là những bài thơ viết bằng văn xuôi về số phận của những con người luôn đấu tranh trong tuyệt vọng để được nhìn thấy… Những truyện ngắn cho thấy dường như Nguyễn Ngọc Tư đang ra khỏi hiện thực của những cánh đồng để tìm đến vùng hỗn mang tâm trí con người”. Một nhận xét khác làm người đọc có thể thấy được cách cấu tứ truyện của “Đảo”: “Hơn một nửa Đảo là những truyện ngắn dưới 2000 chữ, nội dung xoay quanh chuyện mất mác, tổn thương và những cuộc kiếm tìm niềm vui đơn giản trong cuộc sống: Yêu thương, thỏa mãn những mong ước và nhu cầu được tỏa sáng… Là tô đậm nỗi cô đơn của con người bằng nhiều vết mực khác nhau. Là tiếng thét câm của những con người không được nhìn thấy, nghe thấy…”.

Cũng như nhiều tập truyện ngắn khác trước đây của Nguyễn Ngọc Tư, phụ nữ luôn là nhân vật trung tâm của chị qua những câu chuyện kể, họ có thể là người con gái lạc lõng xua đuổi, một người vợ chịu đựng những thiệt thòi bất hạnh, nhẫn nhục trước những oan nghiệt của cuộc đời, người mẹ với những vết chai sần khổ nạn, người đàn bà luôn khao khát được yêu thương… nhưng chung quy tất cả đều tan rã như bọt xà phông, ảo ảnh chìm trôi đưa đẩy số phận họ đến một bến bờ vô định. Người đọc có thể cảm nhận số phận nghiệt ngã của các nhận vật nữ qua từng truyện ngắn của cô nhưng để bước vào thế giới của các nhân vật nữ đó, mấy ai có thể tường tận như Nguyễn Ngọc Tư cho được.

Tôi đọc nhiều tác phẩm của các nhà văn viết về người phụ nữ nhưng chưa bao giờ tôi cảm nhận được cái không khí tù túng, quánh đặc đến nghẹt thở trong tâm trạng mình qua ngòi bút miêu tả về họ của Nguyễn Ngọc Tư, ở một góc độ nào đó chị đã giúp ta khám phá, đi sâu vào nội tâm của người phụ nữ qua những lát cắt, những chiều kích rộng hẹp của không gian và thời gian khác nhau.

Tập truyện gồm 17 truyện ngắn với độ dày khoảng 146 trang, có thể nói khá mỏng so với dung lượng mà Nguyễn Ngọc Tư muốn truyền tải qua đó. Mở đầu là “Biến mất ở thư hiên”: một câu chuyện có đôi chút ma mị khó tin nhưng ta chỉ cần chú tâm đến cốt chuyện: Sinh đột nhiên biến mất sau một kệ sách ở một thư viện chỉ sau một một cái nhìn lơ đãng của Hảo về một hướng khác và từ đó không còn xuất hiện và cô mải miết đi tìm. Tìm chỉ để hỏi cho ra lẻ: “…sao biến mất kỳ vậy, nếu chán nhau thì cứ nói thẳng, từ giả rồi đường ai nấy đi, sao lại phải âm thầm chạy trốn”, dù bên cạnh Hảo đã có người tình nguyện thay thế chỗ của Sinh để rồi con người ấy lại biến mất kỳ lạ như Sinh “…vào khe của những cuốn sách, náu trong thứ bóng tối trong veo”. Tâm trạng Hảo lúc này ra sao khó ai đoán được. Đến thư viện để tìm hình bóng của Sinh hay nhân vật “Tôi” nào ai biết được. Ở “Xác bụi” thể hiện một tâm cảnh khác của người phụ nữ. Dù đã có chồng con nhưng bên tai vẫn luôn văng vẳng nghe lời gọi của người bạn cũ: “Đừng quên anh, Dịu!”. Thắt thỏm, kiếm tìm, nhờ ông đồng bà cốt vẽ cho con đường đi tìm thân xác ở chốn bụi bờ hoang bãi nào đó, để rồi sau giây phút đó chợt bàng hoàng nhận ra và “tự hỏi mình đã làm chi cuộc đời mình?”. “Đảo” lại đẩy thân phận người đàn bà trôi dạt ra khơi, người phụ nữ lại trở thành gái bán hoa cho những ai có tiền, lên hòn Trống làm vợ một đêm cho một người đàn ông mù vì được tiền. Ở nơi này cô tên là Đào, ở một nơi khác cô tên là Mỹ Châu đến độ bây giờ cô không còn biết tên mình là gì. Cuộc sống phải chăng chỉ là trò đùa của số mệnh đối với cô? Người đàn bà tên Lý trong “Sổ lồng” lại như nửa tỉnh nửa mê đang sống trong một thế giới khác: “…con Lý hùng hồn cầm cây mác vót vào giữa tim sông, sau khi chém nát mặt nước kiệt ròng, băm vằm dấu cặn bùn chiếc ghe để lại. Chỗ đó cách nhà Lý gần hai mươi cây số. Mặc kệ cây dao lút cán trong bùn, chị nhẹ nhõm thả tàu ngược về. Tĩnh lặng tràn trề, chị trôi ngửa như xác chết, mắt chong rờ rỡ bóng mây. Hơn nửa đời lí nhí cúi mặt, Lý bỗng nhìn thẳng vào trời không run sợ mảy may.”.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

“Coi tay vào sáng mưa” kể về người đàn bà sống nghề bói toán đã để lạc mất con mình trong một ngày ở chợ Sương, vì mải mê đi theo đường chỉ tay như mê lộ của khách, để rồi những tháng năm dài dằng dặc kiếm tìm cho đến một ngày nọ, người lạ đưa cánh tay bị chặt đứt đến nhờ cô xem bói. Nhìn dấu vết trên cánh tay cô biết là “nó”. Người lạ lạnh lùng hỏi: “Đàn em tôi dặn hỏi kỹ, nó hỏi có phải vào tù nhiều lần không, hay chỉ ở một lần dài cho đến chết? À, nó còn hỏi chẳng may kêu án tử, thì nó bị bắn hay tiêm thuộc độc?”.  Trời ơi! Nó trở về trong hoàn cảnh này sao? Sau mỗi câu hỏi người đàn bà có cảm giác như mình vừa bị phạt một nhát vào người, rúm ró, gục ngả. Còn truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ” kia mới đáng nói nhiều hơn nữa, cốt chuyện được chuyển thể thành kịch bản phim và đạt được giải thưởng Cánh diều vàng năm 2023, lại là một câu chuyện không hề có những diễn biến tâm lý đầy kịch tích. Câu chuyện được kể từ người phụ nữ hàng xóm – cũng là bạn của vợ chồng Nhàn, nhân vật chính trong câu chuyện. Người phụ nữ tên Nhàn sống u uất, lặng lẽ trước những con cuồng nộ không đầu không đuôi của anh chồng, mỗi lần phật ý lại lên cơn “đốt nhà”. Cái tổ ấm ấy bị đốt cháy không biết bao nhiêu lần, sau mỗi lần đốt căn nhà được cất lại đến nỗi không có nơi ở nào tồi tàn hơn được nữa. Mỗi lần đốt nhà, trong mắt anh chồng chỉ có anh lửa không có Nhàn. Anh ta say mê ánh hào quang rực rỡ của lửa. Lần này cũng thế, nhưng lần này Nhàn không lách mình ra khỏi ngọn lửa, Nhàn chọn ở lại. Có lẽ khi cuộc đời bị bủa vây không lối thoát, với người kia ngọn lửa là ánh hào quang chói lọi nhưng với người khác lại là bóng đêm giá băng vĩnh hằng, họ phải tự chọn hủy diệt cuộc đời mình và phải chăng đó cũng là lối thoát duy nhất cho cả hai số phận?

Đánh giá về tập truyện ngắn Đảo, Nguyễn Hồng Nhung có một nhận xét khá tinh tế và thú vị: “Đọc Đảo của Nguyễn Ngọc Tư giống như ngồi trên một chiếc ca nô hỏng, lúc lao vút, lúc lại ì ạch men theo những luồng lạch của lòng người để chạm đến sâu thẳm tam hồn… 16 truyện ngắn là thế giới của những nhân vật bị bỏ rơi, mất mát, cay đắng bẽ bàng luôn mưu cầu hạnh phúc đơn sơ, trần tục nhưng không đạt được. Chúng đan cài vào nhau như một mạng nhện rối rắm, những phận người bị mắc kẹt giữa những sợi tơ ảo ảnh không thể vùng thoát ra được.”

Còn Hạ Băng nhận xét con chữ của Nguyễn Ngọc Tư, ta có thể nghe, ngửi, chạm tay vào được: “Đến với tập truyện ngắn Đảo của Nguyễn Ngọc Tư, bạn đọc nhận được những cảm xúc chân thật, gần gũi nhất, hòa mình vào những câu chuyện của tác giả, với những câu từ không quá hoa mỹ, kết hợp với lối tả thực, nhẹ nhàng đưa bạn đọc lên con thuyền lênh đênh sóng chữ về miền Tây sông nước, như là được nghe thấy, được ngửi thấy, được chạm tay vào từng chi tiết trong tác phẩm.”

Với Hoài Nam trong bài viết: “Nguyễn Ngọc Tư: Tiếng nói nữ quyền” nhận xét chị ở góc độ đấu tranh cho bình đẳng giới: “…Và sự bất bình đẳng giới cứ thế tiếp diễn, cho đến lúc Tư nói ra. Tư nói ra, như là nói hộ những người phụ nữ đã chịu sự câm nín truyền đời, những người phụ nữ mang kiếp vong thân bởi nỗi không còn cái bản ngã tự trị. Tư nói ra, và nếu vì thế mà cho rằng Tư là một nhà văn nữ quyền, thì đây là một văn chương nữ quyền rất ít thấy trong văn học Việt Nam hiện đại: nữ quyền mà không cần đến diễn ngôn thể xác, nữ quyền gần như phi tính dục.”

Vì sao Nguyễn Ngọc Tư lại đặt tên tập truyện ngắn này là Đảo? Chúng ta không thể biết nếu tự tác giả không khơi gợi một điều gì đó cụ thể. Ở các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chị thường buông lửng cái kết mặc cho ai hiểu hay suy luận theo chiều hướng nào cũng được. Cô quăng nó ra giữa dòng đời để người đọc đón nhận và muốn trôi đi đâu thì trôi. Những nhân vật cô đề cập đến phần lớn là phụ nữ sống ở những miền quê, những thân phận bọt bèo, xế chiều lẻ bóng, các mẹ các chị… với những thói quen, cách ăn cách ở cách sống thể hiện trong ngôn ngữ bình dị đậm chất Nam Bộ. Thân phận bé nhỏ, sự cơ cực vì thiếu hiểu biết và những khát khao hạnh phúc giản dị luôn cháy bỏng của họ luôn xúc động trong tình yêu thương đồng cảm.

L.T.V

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm