TIN TỨC

Sự đổi mới của Nguyễn Huy Thiệp trong quan niệm về văn học

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-11-04 00:31:31
mail facebook google pos stwis
10356 lượt xem

Văn học đương đại Việt Nam hơn ba chục năm qua, không thể không nhắc tới nhà văn Nguyễn Huy Thiệp với hàng loạt truyện ngắn độc đáo. Điều đáng nói thêm, hầu hết những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đều chứa đựng một hoặc vài lời triết lý của ông về văn chương. Chứng tỏ, Nguyễn Huy Thiệp là người có nhiều trăn trở về văn chương và ý nghĩa của nó. Điều này cũng là trăn trở của nhiều nhà văn thế hệ trước, trong đó gần kề ông nhất có thể kể đến Nam Cao và Nguyễn Minh Châu. Nhưng đến Nguyễn Huy Thiệp, quan niệm về văn chương và sứ mệnh của nhà văn trong các sáng tác của ông có nhiều đổi mới theo hướng phản tỉnh, thực sự rất đáng bàn.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp

Trong quan niệm truyền thống, chức năng nhận thức và phản ánh hiện thực mặc nhiên được xem là một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học. Nhà văn  gánh vác sứ mệnh thư ký trung thành của thời đại như một sự tự nguyện, và với không ít người, đấy là băn khoăn duy nhất hoặc quan trọng nhất khi cầm bút. Quan niệm này đã được Nguyễn Huy Thiệp phản biện trong các sáng tác của mình. Theo Nguyễn Huy Thiệp, kỳ vọng vào khả năng nhận thức của văn học là một nhầm lẫn to lớn, bởi văn học cũng như mọi loại hình nghệ thuật khác, đều mang trong mình những giới hạn của nó. Huống hồ, nó cũng chỉ là sản phẩm của những cá nhân, thể hiện nhận thức của cá nhân giữa mênh mang hiện thực rộng lớn. Nguyễn Huy Thiệp có một đặc điểm là hay đẩy nhận định, những phát biểu của mình đến chỗ cực đoan. Đó có thể là một cách nói để nhấn mạnh ý của mình, làm độc đáo ý của mình. Chẳng hạn khi ông để nhà văn họ Vũ trong truyện ngắn Bài học Tiếng Việt cay đắng nhận ra “vũ trụ là hỗn độn vô minh… Văn học không phải là tất cả. Không nên quá coi trọng văn học. Văn học chỉ là từ ngữ. Như những ngọn gió”…, hay khi ông công khai bày tỏ sự nghi ngờ năng lực nhận thức hiện thực của văn học trong tiểu luận Thời của tiểu thuyết (báo Ngày nay, số 21, 2003): “Tiểu thuyết không chỉ là tấm gương soi của thời đại gì hết, nó kể chuyện và nhầm lẫn lung tung” thì ta phải thấy được rằng, trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp văn chương hiện đại có những giới hạn trong sứ mệnh của nó, không nên ảo tưởng rằng văn học có thể làm được tất cả trong sự giáo dục nhận thức, đạo đức, tư tưởng, tình cảm cho con người, không phải mọi phát biểu của nhà văn trong văn học đều đạt đến sự trọn vẹn trong nhận thức.

Nguyễn Huy Thiệp thấy được chỗ mạnh và chỗ yếu của văn học cũng như những giới hạn của nhà văn trong tác phẩm. Nhà văn không phải là người phán truyền những chân lý. Nguyễn Huy Thiệp thức tỉnh chúng ta một điều rằng, người nghệ sĩ trong hành trình nhận thức về mình phải thoát khỏi những nhầm lẫn vương giả – rằng họ là những người thư kí trung thành của thời đại, là nhà cách mạng, là người dự báo hiện thực,… Các nhà văn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là những con người có thể rất tinh tế, mẫn cảm đấy nhưng cũng bất lực trước hiện thực. Họ bị lún sâu trong đám bùng nhùng của hiện thực đời sống, không có khả năng tác động đến hiện thực.  Họ rơi vào cái cô đơn của một con người hiểu đời, biết mình biết ta nhưng không thể đem cái sự hiểu đó ra đối chất với hiện thực cuộc đời. Anh ta nhận thức được về năng lực, giới hạn của mình và chấp nhận nó như một lời “thú tội”. Đó là nhân vật thi sĩ trong Sang sông. Sức mạnh hành động của anh ta té ra thua một tên cướp. Hay Nguyễn Du, nhân vật trong Vàng lửa khi đặt bên cạnh chân dung của vua Gia Long cũng thật mờ nhạt, bởi vua Gia Long bằng tất cả sự tàn nhẫn của mình vẫn có năng lực làm cho lịch sử sinh động hẳn lên, đem tới sức đẩy lớn với khối cộng đồng – điều mà Nguyễn Du không bao giờ có được. Thoát khỏi những ngộ nhận về vai trò của nhà văn, của văn học nghệ thuật là một việc không dễ dàng bởi nó khiến nhà văn phải đối lập mình với những kì vọng, những hình ảnh đẹp đẽ của họ trong nhận thức truyền thống của cộng đồng. Nếu như ở đây cần một sự so sánh thì có lẽ là trong quá khứ, Nam Cao, Nguyễn Minh Châu tự đấu tranh  và mổ xẻ chính mình để vươn tới những thiên chức mà cộng đồng đã kì vọng về họ, thì trong hiện tại, Nguyễn Huy Thiệp hiệu đính lại để chỉ ra những bất khả, những giới hạn mà nhà văn và những tác phẩm của mình chẳng thể vượt qua. “Nhà văn và tác phẩm của họ không có nhiều sức mạnh như đã từng bị ngộ nhận”-  Nguyễn Huy Thiệp đã thẳng thắn nhìn vào sự thật này và dũng cảm chấp nhận chúng, chấp nhận những giới hạn trong sứ mệnh của người nghệ sĩ để từ đó đảm nhận những sứ mệnh mới của mình. Chúng ta hi vọng và tin tưởng là như vậy.

Nhà phê bình trẻ Trịnh Thị Nga

Có lẽ bắt nguồn từ quan niệm về văn chương và người nghệ sĩ như vậy nên có thể thấy một điều rằng trong phần lớn các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, ông gạt bỏ vai trò độc quyền của người kể chuyện trong việc đưa ra những nhận định, đánh giá, thậm chí cả trong tái hiện hiện thực. Yếu tố miêu tả trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hầu như vắng bóng, thay vào đó là lối kể theo kiểu liệt kê các sự kiện, các cảm giác (thuần tuý chỉ là những cảm giác) được nhà văn đặc biệt hay sử dụng. Bởi trong miêu tả bao giờ cũng hàm trong nó một sự lí giải và cắt nghĩa nào đó về đời sống. Kể cho phép nhà văn có thể giấu đi mọi sự cắt nghĩa – đặc trưng của kể là chủ quan, phiến diện. Trên văn bản những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, hầu như người ta chỉ thấy những chuỗi sự kiện trần trụi với giọng văn lạnh. Bởi Nguyễn Huy Thiệp nhận ra được rằng không phải nhà văn có thể lí giải, cắt nghĩa hết về hiện thực, nhất là một nhà văn hiện đại trong cuộc sống phức tạp ngày hôm nay.

Cần phải nói thêm một điều nữa rằng, Nguyễn Huy Thiệp đặc biệt yêu cầu nhà văn, văn học là phải hướng đến những giá trị nhân văn. Đó là một hằng số tồn tại vĩnh viễn: “Điều khốn nạn, trớ trêu và cũng là điểm yếu của một nhà văn là dù hiểu đời, lịch lãm đến đâu cuối cùng anh ta vẫn phải hành xử và biết trình bày tư tưởng nhân đạo một cách nghệ thuật. Giá trị nhân đạo là lí do duy nhất để văn học tồn tại”. Con người nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là con người không ngừng hướng về cái đẹp, khát khao tìm kiếm những điều tốt đẹp trong cuộc sống, như tiếng hát của chàng Trương Chi:

Những khát khao của ta

Hướng về tuyệt đối

Ta là Trương Chi

Ta ca ngợi tình yêu

(Trương Chi)

Tha thiết và không ngừng tạo lập trong tác phẩm của mình những giá trị nhân đạo – những giá trị dưới con mắt của Nguyễn Huy Thiệp đang dần bị mai một, bị đánh rơi trong đời sống thực tại – đã đưa lại cho ông một quan niệm mới về sứ mệnh của văn chương. Đó là không phải ngợi ca cuộc sống, ngợi ca hiện thực mà là “phản biện” toàn bộ trật tự của đời sống hiện tồn, thức tỉnh mọi người ý thức về sự thật để từ đó độc giả tự tìm ra cách ứng xử trước cuộc đời.

Nếu như trước đây, văn học thường là và cần là tiếng nói chung của dân tộc, thời đại, cộng đồng, phát biểu những vấn đề, những tư tưởng được cộng đồng thừa nhận, ủng hộ và có lợi cho cộng đồng thì văn học thời kỳ Đổi mới không chỉ như vậy, nó có thể và cần phải là phát ngôn của mỗi cá nhân. Trong một nền văn học hướng đến tinh thần dân chủ, đó là điều cần được coi trọng. Văn học trở thành phương tiện cần thiết để tự biểu hiện, ở đó người nghệ sĩ thể hiện cái nhìn riêng của mình về con người, về cuộc sống, nơi ý thức và cả vô thức trong tâm trạng của người viết có thể xen cài, hoà lẫn. Nhà văn không còn là người độc quyền ban bố, phán truyền các chân lí không thể bàn cãi (không thể bàn cãi bởi nó là tư tưởng chung, là mục tiêu cao cả của cộng đồng). Nhà văn nói lên những suy nghĩ của riêng mình, do mình cảm nhận được và dù có rất muốn bênh vực cho những tín niệm của mình thì họ cũng không thể biết đến những tư tưởng và quan niệm khác đang song song tồn tại. Chính vì vậy mà mối quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp cũng thay đổi theo hướng dân chủ hoá, bình đẳng hơn. Độc giả được tôn trọng, được tự rút ra kết luận cho riêng mình đằng sau những con chữ khách quan, lạnh lùng chỉ rặt sự kiện của nhà văn. Văn chương thành ra còn là nơi độc giả và tác giả cùng đi tìm những chân giá trị, sau những lần ngộ nhận và lầm lẫn, bởi cả hai không ai có quyền năng tuyệt đối trong thẩm định, đánh giá mọi vấn đề.

Như đã nói ở trên, cái tạng của Huy Thiệp là hay sử dụng cách nói cực đoan, nhưng những suy nghĩ của ông về vai trò, sứ mệnh của nhà văn, của văn học nghệ thuật là điều đáng để cho chúng ta trăn trở, day đi dứt lại, dù tác giả tự nhận văn chương của mình chỉ như những ngọn gió.  Sự thay đổi quan niệm về nhà văn, về vai trò văn học nghệ thuật của  Nguyễn Huy Thiệp đã có tác dụng tích cực trong phát huy cá tính sáng tạo của nhà văn, trả văn học về lại với quy luật phát triển và những đặc trưng đích thực của nó.

 Trịnh Thị Nga/VHSG

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm