TIN TỨC

“Theo chồng về quê” của Mai Khoa – một bài thơ hay

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-02-21 16:12:35
mail facebook google pos stwis
1224 lượt xem

ĐINH THIÊN HƯƠNG

Bởi yêu chồng từ lúc mới bén duyên
Như tình biển yêu thuyền thương nhớ
Nghĩa vợ chồng chẳng bao giờ hết nợ
Sợi tơ hồng em xe chỉ luồn kim

Điều ước ao em mải miết kiếm tìm
Một miền quê nơi “đất lành chim đậu”
Có câu ví dặm ân tình sâu đậm
Có vườn trầu ngan ngát hương cau…

Đất miền Trung tuy sỏi đá bạc màu
Người xứ Nghệ luôn giàu lòng nhân ái
Nét dịu dàng như cỏ cây hoa trái
Dòng Lam giang vời vợi trong xanh

Bỏ phố thị về miền đất quê anh
Đêm ngắm trăng thanh soi mình trên cát
Chiếc thuyền nan chòng chành nghe biển hát
Làn gió nam man mát phía chân trời

Thời gian ơi! Lời yêu thương vời vợi
Nơi làng quê ấm áp khói lam chiều
Chùa An Thái ngân tiếng chuông chầm chậm
Núi Phượng Hoàng sừng sững chắn bão giông

Cuộc sống buồn vui san sẻ cùng chồng
Có mệt mỏi không giận hờn oán trách
Tìm hạnh phúc ở trong từng trang sách
Trong bát chè xanh sóng sánh vị quê mình!

Nghệ An, 15.5.2024
Mai Khoa

Mai Khoa là hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh. Mảnh đất phương Nam là nơi vợ chồng chị và con cháu chọn làm nơi định cư đã mấy chục năm. Chị vốn là gái gốc nội thành Hà Nội. Tuổi thanh xuân, từng là vận động viên bóng bàn trong quân đội. Rồi theo tiếng gọi tình yêu, Mai Khoa kết duyên với chàng trai biển Quỳnh xứ Nghệ. Quê chồng có nhà cửa, vườn tược, có tông tộc và tình làng nghĩa xóm – nơi bao năm qua, từ thuở xanh mái đầu đến nay đà bạc tóc, ở vào cái tuổi “cổ lai hy”, Mai Khoa vẫn luôn có những chuyến “theo chồng về quê”.

Vì thương nhau mà bén duyên chồng vợ. Chị yêu anh như “tình biển yêu thuyền”, bất chấp xa cách, chẳng nệ giàu nghèo, không âu lo kẻ miền quê “gió Lào cát trắng” - người kinh kỳ, thanh lịch Tràng An. Thời ấy, quyết định này phải nói là dũng cảm! Vì thế, ngay trong khổ thơ mở đầu, Mai Khoa có hai câu thơ tự nhiên mà hồn hậu, khăng khít, vấn vít nghĩa tình, duyên nợ keo sơn, với một hình ảnh thơ đậm chất dân ca, giàu gợi cảm và đầy tinh thần chủ động: “Nghĩa vợ chồng chẳng bao giờ hết nợ / Sợi tơ hồng em xe chỉ luồn kim”. Tình yêu vô bờ bến và trong trẻo ấy khiến Mai Khoa cả đời như chưa dứt nợ. Và điều đó cũng chứng tỏ, chàng trai xứ Nghệ của chị có sức hấp dẫn đến mức nào…

Anh ấy thật hạnh phúc vì trong đời có người vợ – người yêu anh và yêu tất cả những gì dung dị, nghèo khó, gian khổ của quê anh, từ thuở hàn vi đến bây giờ đủ đầy của ăn của để. Không biết chuẩn mực của cái thời “Một mái nhà tranh, hai trái tim vàng” có chi phối tình nồng của họ không. Nhưng đọc cả bài thơ, như được dõi theo suốt hành trình cuộc đời, ta luôn thấy Mai Khoa thi vị hóa những giá trị vật chất và tinh thần ở nơi quê chồng. Tuyệt đối không thở than, “không giận hờn oán trách”. Nhờ thế, chị đã tạo nên trùng điệp những hình ảnh thơ dung dị mà ăm ắp yêu thương, ngập tràn cảm xúc: “Câu ví dặm ân tình sâu đậm / Có vườn trầu ngan ngát hương cau / Đất miền Trung sỏi đá bạc màu / Người xứ Nghệ luôn giàu lòng nhân ái… Dịu dàng như cỏ cây hoa trái… Lam giang vời vợi trong xanh… Trăng thanh soi mình trên cát… Thuyền nan chòng chành nghe biển hát… Gió nam man mát phía chân trời… Làng quê ấm áp khói lam chiều / Chùa An Thái ngân tiếng chuông… Núi Phượng Hoàng sừng sững chắn bão giông…”. Thật là nặng lòng, không chê quê xa - quê nghèo khó. Yêu thế mới là yêu!

Cho tới hôm nay, vợ chồng Mai Khoa đã dắt tay nhau đi đến chặng cuối của đường đời, chị mới thổ lộ ý nguyện từ thuở thanh tân, làm kim chỉ nam, làm nguyên tắc sống: “Điều ước ao em mải miết kiếm tìm / Một miền quê nơi đất lành chim đậu”. Và tất nhiên, như chúng ta ai cũng biết, suốt một đời chăn gối, chẳng phải bao giờ cũng “cơm lành, canh ngọt” cả đâu. Nhưng nếu biết giữ nguyên tắc sống như thế, biết tôn thờ duyên kiếp, chấp nhận nhau, thì:

“Cuộc sống buồn vui san sẻ cùng chồng / Có mệt mỏi không giận hờn oán trách / Tìm hạnh phúc ở trong từng trang sách / Trong bát chè xanh sóng sánh vị quê mình!”

Hai tiếng “quê mình” ở cuối bài khác hẳn với “miền đất quê anh” ở phần mở bài. Nó là cả một quá trình “tự diễn biến – tự chuyển hóa”. Bây giờ nghe sao mà lịm ngọt yêu thương! Keo sơn và nồng nàn, gắn kết…

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm