TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh: Bài ca về sự sống, tình yêu và hy vọng

Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh: Bài ca về sự sống, tình yêu và hy vọng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-14 17:38:25
mail facebook google pos stwis
862 lượt xem

Đại tá, Nhà văn, PGS-TS NGUYỄN THANH TÚ

1. Nếu trước đây, trường ca sử thi trong dòng chảy văn học cách mạng trong vắt, gần như nguyên chất, nguyên khối, hình tượng người lính hiện lên với bút pháp lãng mạn bay bổng luôn tỏa hào quang chiến thắng; thì nay chất sử thi đã có phần nhường chỗ cho chất đời tư, hòa cùng âm hưởng anh hùng ca là âm hưởng bi ca tạo nên một hợp âm bi tráng khá đặc sắc.

Sự biến đổi này được cho là kết quả của độ lùi thời gian, trường ca giờ có xu hướng khái quát về những cái được, mất của lịch sử thông qua những số phận cá nhân. Chân dung tinh thần của một thế hệ cầm súng hiện rõ qua thái độ lựa chọn và cống hiến. Từ cái cao cả, lớn lao của thời đại đến cái bình dị nhỏ bé của đời thường đều được thể hiện bằng cái nhìn chân thành, đầy đặn hơn.

Đời sống nội tâm của người chiến sĩ ở chiến trường, ngoài những điều thiêng liêng cao cả, còn là những điều thầm kín, những tâm tư, tình cảm cá nhân được bộc lộ hết sức chân thực, đời thường. Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh của Châu La Việt chính là một trường ca thành công viết theo hướng này.

Với đặc điểm dung lượng lớn, dài về câu chữ, phong phú về chi tiết, sự kiện nên trường ca luôn tìm tới những điểm tựa. Đó có thể là câu chuyện về lịch sử của một vùng đất, một thời kỳ, những con người anh hùng. Và điểm tựa trường ca của Châu La Việt chính là vùng đất thép, đất lửa của Nam bộ kháng chiến rất giàu trữ lượng sử thi - Tây Ninh!

2. Hai sợi chỉ xuyên suốt trường ca là 2 câu chuyện về 2 con người cùng điểm xuất phát từ làng quê Xuân Cầu (xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Họ ra đi cùng với tình yêu quê hương đất nước, cùng khát khao giải phóng quê hương, thống nhất đất nước, cùng một điểm đến là vùng đất “Tây Ninh nóng bỏng”

Cũng những ngày ấy có một người Xuân Cầu/ Ông đã tới với chiến trường rất sớm/ Nơi ông đến đất Tây Ninh nóng bỏng/ Ông sẽ yêu như chính quê hương mình…”. Và rồi gắn với ông là những từ ngữ của sự bí mật như “người ấy”, “nằm vùng”, “đặc biệt”… “Người ấy” ở lẫn vào dân, sống cùng dân, lo lắng cái lo lắng của dân, cùng ăn khoai ăn sắn với dân: “Bà con gọi ông chú Tư Tô Lâm/ Bà con thương ông củ khoai củ sắn/ Áo bà ba đã bao mùa mưa nắng/ Áo bà ba vết đạn chửa kịp khâu…”. Một chi tiết thật đắt khi cho thấy sự nguy hiểm, cái chết luôn rình rập bất cứ lúc nào nên phải luôn vội vã!

Và trong chiến trường đó, người đồng đội, đồng hương Xuân Cầu còn lại là một người con gái: “Tuổi 19 mái tóc xõa ngang vai/ Em ra đi cùng bạn bè đồng đội/ Lần đầu tiên ba lô khoác lên vai…”. Người chiến sĩ - nghệ sĩ ấy tên là Tô Lan Phương, điểm nhìn trữ tình được trao cho nhân vật bộc lộ, giãi bày: “Có những đêm đi biểu diễn tối trời/ Mắc chiếc võng nằm ngắm vầng trăng sáng/ Nhớ quê hương, nhớ mẹ cha, bè bạn/ Úp mặt xuống võng mặc cho nước mắt rơi…”. Đó là những phút “xao lòng” ai cũng có khi xa quê, đang ở thời điểm đối mặt với sự dữ dội nhất của chiến tranh, thì giây phút ấy càng trăn trở, day dứt, mãnh liệt.

Như một logic nghệ thuật, không gian nghệ thuật trữ tình đồng hiện theo sự quy chiếu của hai cái tôi tâm trạng, ánh xạ vào nhau để cùng tỏa ra thứ ánh sáng nhân văn về tình yêu cội nguồn, tình đồng hương, và cao hơn nữa là tình yêu nước, tình đồng chí.

Tình quê nở hoa giữa tình yêu đất nước. Hai người lính, hai thế hệ ngẫu nhiên gặp nhau trong không gian thật đặc biệt: “Chú với cháu cùng quê hương Xuân Cầu/ Vườn nhà cháu ngày xưa chú thường sang hái quả/ Chú cũng họ Tô, là đội trưởng thiếu nhi từ nhỏ/ Đi rải truyền đơn, đi canh gác cho ông cháu họp hành”. Ngoài tình đồng chí, đồng hương, còn là nghĩa tình chú cháu chung không gian hoài niệm quê hương xa cách…

Mạch cảm xúc trường ca đi rất khéo, với mỗi cá nhân là những nỗi niềm riêng. Với Tư Tô Lâm (tên thật của đồng chí là Tô Quyền) là nỗi nhớ khắc khoải người vợ hiền nơi hậu phương xa xôi: “Như bao vợ của những người ra trận/ Một tay bà chăm sóc đàn con/ Đứa lớn đứa bé con trai con gái/ Tuổi ăn tuổi ngủ tuổi cắp sách đến trường/… Thằng anh lớn lên, nhường tấm áo cho em/ Con chị học xong, sách cho em học tiếp…”. Người chồng lại hoạt động bí mật nên “Bà thầm lặng không một lời than thở”. Đó cũng là một hy sinh lớn lao…

Với người con gái quê hương Xuân Cầu, giữa chiến trường, một ước mong nhỏ nhoi lại nói lên rất rõ nhân cách một con người đáng yêu, đáng quý, đáng phục, rất nghệ sĩ và cũng rất chiến sĩ: tất cả để hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn. Đó là “có một chiếc đài” để “nghe tin tức”, “lắng nghe tác phẩm mới”, “học bài hát làm tiết mục nhiều thêm”. Đặc biệt là được nghe tiếng đàn của mẹ - một nghệ sĩ “vẫn đêm đêm gảy đàn thu thanh/ Trên làn sóng phát thanh tiếng thơ hay ca nhạc…”.

Giữa nơi chiến trường mong manh sống chết, một ước mơ nhỏ thôi nhưng ý nghĩa thật lớn vô cùng… Thế nên, tiếng hát của người con gái ấy không còn là tiếng hát thông thường. Trong không gian bom đạn ngút trời, đó là lời ca của con tim yêu thương, chân thành, trung thực đến đáy, thấu hiểu đến tận ngọn nguồn sự sống, thấu cảm đến từng tế bào máu.

Trái tim tìm đến với trái tim: “Những người lính bụng đói đến thắt lòng/ Bòng thắt ngang người gạo không còn một hạt/ Nhưng tất cả lặng im để uống từng tiếng hát/ Tiếng hát người con gái tuổi 20”. Phải trong hoàn cảnh ấy, phải là người nghe lúc ấy, đi làm nhiệm vụ như vậy, thì không còn là “nghe” bằng thính giác mà phải là “uống” bằng tất cả các giác quan. Vì lời hát ấy là nước ngọt mát lành, là suối niềm tin, là dòng sông tình yêu, và cao hơn, là sự sống.

3. Tác phẩm chỉ khép lại câu chữ còn chân trời nghệ thuật thì được mở ra mãi theo nhiều chiều của bài ca về sự sống, tình yêu và hy vọng. Có rừng xưa xanh bóng, có âm thanh tiếng chim, có mùa xuân bát ngát. Một bức tranh có cả cận cảnh và viễn cảnh, từ ngày xưa về đến hiện tại: “Hôm nay tôi về Tây Ninh/ Căn cứ xưa với rất nhiều chim hót/ Rừng tươi xanh như mùa xuân bát ngát/ Lại nhớ bài hát người nghệ sĩ năm xưa… Về Gò Dầu thăm dòng Vàm Cỏ Đông/ Lại nhớ người Anh hùng năm xưa chỉ huy quyết tử/ Hỏi sông ơi dòng sông còn nhớ…”.

Nguồn: https://www.sggp.org.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm