TIN TỨC

Trương Nam Hương Tạ ơn Hà Nội trọn đời

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-10-21 21:21:15
mail facebook google pos stwis
1304 lượt xem

NGÔ ĐỨC HÀNH

Với Hà Nội, Trương Nam Hương đã viết, vẫn viết cho những đứa con xa đất Thủ đô, ngược dòng cảm xúc. Thơ về Hà Nội của ông là tiếng thơ khắc khoải, sóng luôn vỗ đến nao lòng.

Mặt hồ giữa phố như nghiên mực / Sông thảo hoa văn một nét rồng / Hoa sữa thơm nồng lên giấy điệp / Bốn mùa thao thức tuổi rêu phong”. Chỉ với bốn câu thơ trong bài tứ tuyệt Bốn nét phác Hà Nội, Trương Nam Hương đã cho thấy sự khác biệt của một tài thơ.

Rủ nhau thăm cảnh Kiếm hồ / Thăm cầu Thê Húc, thăm chùa Ngọc Sơn / Đài Nghiên Tháp Bút chưa sờn /Vì ai gây dựng nên non nước này”, (ca dao). Hồ Gươm, không chỉ là “lẵng hoa” giữa lòng Hà Nội, mà còn ôm vào mình biết bao huyền sử. Quần thể di tích hiện hữu cùng năm tháng minh chứng cho “kho báu” thiêng liêng ấy.

Trước khi vào Đền Ngọc Sơn (lúc đầu gọi là chùa, trên đảo Ngọc), ai chưa từng để ý tòa tháp ấy? Dẫu nhỏ bé và khiêm nhường nhưng ẩn dụ hoài bão lớn lao: “Tả Thanh thiên”, tức Viết lên trời xanh! Đó chính là Tháp Bút trên núi Ngọc Bội (tên cũ là núi Độc Tôn), bên hồ Hoàn Kiếm.


Nhà thơ Trương Nam Hương.

Trương Nam Hương tưởng tưởng ra Hồ Gươm như một “nghiên mực”. Đã có bút thì phải có mực mới viết được. Có hiểu bối cảnh lịch sử lúc cụ Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (thường gọi là Thần Siêu), xây dựng vào năm 864 mới thấm ý nghĩa người xưa gửi gắm. Đó là khí phách Hà Nội.

Và nữa, đó là sông Hồng, với huyền sử Rồng bay lên. Hoa sữa – một thời là một trong những loài hoa đại diện cho tình yêu, đã đi vào bài hát Hoa Sữa của nhạc sỹ Hồng Đăng. Hà Nội là thơ, là âm nhạc, là hội họa, “Bốn mùa thao thức tuổi rêu phong”.

Viết về Hà Nội không dễ, viết ngắn về Hà Nội càng khó và để “nằm lòng” cùng thời gian, càng cực khó. Cố nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh từng nhắc đến yếu tố “may mắn” khi sáng tạo là ở điểm này. Thấu cảm Hà Nội và với tài thơ của mình, nhà thơ Trương Nam Hương mới có được thi phẩm Bốn nét phác Hà Nội.

***

Trương Nam Hương có bố người Huế, mẹ Bắc Ninh, tuổi thơ gắn bó với Hà Nội. Sau thời gian ngắn ở Huế, Biên Hòa, gia đình ông định cư tại TP. Hồ Chí Minh: “Ruổi rong khắp bốn phương trời/ Câu thơ hành khất theo người hành hương/ Ta gom nhặt giữa đời thường/ Nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của cha”, (Câu thơ ngày về).

Do vậy, trong thơ Trương Nam Hương có ngọt ngào Kinh Bắc; thâm trầm cố đô Huế; hào hoa, thanh lịch Hà Nội; hào sảng, cưu mang của đất phương Nam. “Trong tôi có chút sâu đằm / của Kinh Bắc với thâm trầm Cố đô / sông Hồng hắt đỏ lên thơ / tôi buông lục bát xanh bờ Hương Giang”, (Gửi hai dòng sông quê).

Trương Nam Hương “thờ phụng” Hà Nội như thờ phụng một linh hồn. Trương Nam Hương viết khá nhiều về Hà Nội, tình cảm, tâm thế của ông thuộc về Hà Nội. Có thể kể đến Trăng phố, Hà Nội một thời, Mùa xanh, Hà Nội anh về, Viết ở Nghi Tàm, Rơm rạ một thời tôi, Lộc vừng Hồ Gươm, Với sông Hồng, Ký ức phố, Góc nhớ Hà Nội...Có thể nói, Hà Nội “ám ảnh” trong tâm hồn thơ ông.

Trương Nam Hương sống ở Hà Nội vào thời kỳ đất nước chưa thống nhất, cuộc sống biết bao gian khó: “Một thời Hà Nội lo toan/ Gạo ngô thì thiếu, hoa xoan lại thừa/ Một thời. Ôi, một - thời – xưa/ Áo phong phanh gió bốn mùa buồn vui”, (Hà Nội một thời)

Nhưng ta vẫn gặp một Hà Nội bình yên, thân thương và rộng lượng. “Nhớ Hà Nội những đêm báo động / Mặc bom rung dế vẫn gáy trong hầm / Hoa sữa còn thơm, biết mình còn sống / Mẹ khóc thầm trong giá rét căm căm”, (Thành phố tuổi thơ tôi).


Ảnh tàu điện giữa phố phường Hà Nội của nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Đức Thomas Billhardt. Nguồn: Internet

Đến bây giờ Trương Nam Hương vẫn chưa quên những niềm vui trẻ con, chọc bàng chín, nhảy tàu điện ra Bờ Hồ xem chợ Tết, dỏng tai nghe hát xẩm....Đó là một phần ký ức.

Những quả sấu giòn rơi trưa tháng sáu
Hà Nội ơi nhớ quá tuổi lên mười
Ta nhón nhẩy bước cào cào châu chấu
Suối ve trào vòm phượng - nắp vung sôi

(Thành phố tuổi thơ)

Năm 1985, Trương Nam Hương trở lại Hà Nội lần đầu, anh xúc động: “Anh xa đất Bắc mười năm / Tay em Hà Nội xin cầm hơi lâu / Hỏi mùa hoa sữa đi đâu / Câu thơ ngồi khóc, mắt nâu lại buồn”, (Chiều Hà Nội và em). Và thổn thức: “Ly kem Thủy Tạ mười năm trước / Còn mãi thơm tho đến tận giờ / Anh đứng bên kia cầu Thê Húc / Nhìn áo em hồng nắng lấp lơ… “, (Nhớ mùa Đông Hà Nội).

Người ta đã từng tổ chức rất nhiều triểm lãm về Hà Nội, như “Triển lãm Hà Nội những năm đầu thế kỷ 19” (năm 2018), “Hoài niệm Hà Nội phố” (năm 2018), “Xưa và Nay, đổi thay đường phố Hà Nội” (năm 2023)....; đặc biệt, các triển lãm “Thương nhớ thời bao cấp" (năm 2018), "Ký ức Hà Nội" (năm 2018), “Hà Nội 1972 – Khát vọng hòa bình” (năm 2022), "Hà Nội 1967 - 1975" (năm 2023 của nhiếp ảnh gia người Đức Thomas Billhardt)... Tất cả những hình ảnh đó có trong bài thơ Hà Nội một thời của Trương Nam Hương.
...
Một thời Hà Nội hiên ngang
Giữa bom rơi. Hứng quả bàng chín rơi
Một thời Hà Nội cùng tôi
Mũ rơm, lọ mực, nếp xôi đến trường

Một thời Hà Nội thảo thương
Sẻ chia lát đậu, thìa đường, mớ rau
Một thời Hà Nội buốt đau
Khâm Thiên trắng xót mái đầu khăn tang

(Hà Nội một thời)

Đó là một thời lung liêng trong tâm hồn thơ Trương Nam Hương. Ông sống cùng gian khó mà tự hào, kiêu hãnh...Đến bây giờ, Trương Nam Hương vẫn “Tạ ơn Hà Nội trọn đời / Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo”, (Hà Nội một thời). “Chỉ sông Hồng thương mẹ hát đơn côi / Phù sa đỏ như miếng trầu mẹ quyệt/ Ăn hạt gạo mãi giờ con mới biết/ Có sông và đời mẹ ở bên trong”, (Với sông Hồng).


"Chỉ sông Hồng thương mẹ hát đơn côi", thơ Trương Nam Hương

Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây... có vị trí “đặc biệt” trong thơ Trương Nam Hương; đó là không gian nghệ thuật trong thơ ông. Nhìn sương khói Hồ Hoàn Kiếm ông lặng nhớ về tuổi thơ, về mẹ của mình: “Nhớ lặng thầm thôi không dám gọi/ Sợ làm tóc mẹ giật mình rơi/ Bao nhiêu sợi trắng dâng như khói/ thảng mặt Hồ Gươm lạnh bốc hơi”, (Nhớ mùa Đông Hà Nội). Và ông bồi hồi: “Anh ra đền Ngọc Sơn ngồi/ Là si lựa chỗ không người để gieo”, (Viết ở Hồ Gươm).

Hồ Gươm hiện lên trong thơ ông với một lời mời: “Lên cầu Thê Húc đi em / Nhớ thăm thẳm nhớ một đêm gió lùa / Rễ si rét đến run mùa / Môi em đào nụ giao thừa - Mùa Xuân”, (Lời mời đêm giao thừa).

Còn đây là những câu thơ tình anh viết ở Hồ Tây: “Bao tình nhân đến Hồ Tây / Khéo thôi kẻo dẫm dấu giày anh xưa/ Áo lưng lửng lẳn eo mùa / Thun thăn váy lá bỏ bùa ai đây”, (Trăng phố). “Mùa hư ảo hay tình em ảo thế/ Anh xoay ngang khẽ chạm sóng Tây Hồ/ Có ánh mắt nhìn anh qua thế kỷ/ Thấy anh giờ dắt nhớ tuổi anh xưa!”, (Góc nhớ Hà Nội).

***

Tài thơ Trương Nam Hương bộc lộ từ sớm. Khi mới ngoài 20 tuổi Trương Nam Hương đã xuất bản Khúc hát người xa xứ, (NXB Trẻ, 1990) và cho đến nay ông đã có 12 tác phẩm. Về thành tựu, Trương Nam Hương đã có 10 giải thưởng; giải nào cũng danh giá, nhưng phải kể đến Giải thưởng Văn nghệ Quân đội (1989-1990) và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, (năm 1991), nhiều giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam và các giải thưởng khác.

Về đề tài Hà Nội, ông đã đạt Giải Nhất Cuộc thi thơ Thăng Long - Hà Nội, trái tim tôi, của báo Sài Gòn Giải phóng (năm 2010), nhân kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Có thể nói thế này, nếu thi ca là một “tôn giáo” thì Trương Nam Hương từ lâu đã được chọn là một tông đồ. Ngoài thơ và dịch thơ, ông không “sân si” một lĩnh vực nào khác. Dẫu “thế giới xô lệch” và văn chương đang “bươn bả” với nhiều xu hướng, phong cách nhưng Trương Nam Hương vẫn vậy, bình thản, thánh thiện. Ông tiếp tục sáng tạo thi ca những gì thuộc về nhân bản.

Nhớ xưa Hà Nội anh về/ Gặp Thu môi cốm váy xòe heo may”, (Hà Nội anh về). Với Hà Nội, Trương Nam Hương đã viết, vẫn viết cho những đứa con xa đất Thủ đô, ngược dòng cảm xúc. Thơ về Hà Nội của ông là tiếng thơ khắc khoải, sóng luôn vỗ đến nao lòng.

Khi tôi viết những dòng này, Hà Nội vào Thu. Dù tròn “lục thập hoa giáp” nhưng trái tim Trương Nam Hương vẫn dào dạt, trẻ trung lắm. Hà Nội vẫn chờ Hương đấy!

Nguồn: https://vlr.vn/truong-nam-huong-ta-on-ha-noi-tron-doi

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm