TIN TỨC

Từ khải ca họa mi đến thực mơ giữa đôi bờ chùa – chợ!...

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-11-12 20:02:33
mail facebook google pos stwis
2550 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM

Quan sát thấy trên Thi đàn Thơ Việt hiện đã khá đông đảo những doanh nhân là nhà thơ, mà tiếc là tôi chưa thấy các chuyên gia Văn học định vị giá trị thi nhân của họ! Là doanh nhân, họ đã và vẫn đang có đóng góp to lớn, thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế nước nhà phát triển. Thế còn địa vị thi nhân của họ thì sao?
 

Về câu chuyện này, tôi hy vọng chia sẻ như dưới đây có thể hé lộ chút nguyên do?

GỬI BẠN THƠ
 

Chỉ thực không mơ buồn chết chắc

Chỉ mơ không thực đói vàng răng

Thuyền ai ngự giữa dòng mơ – thực

Lưới cất, vàng reo…

                         cá lẫn trăng!”
 

            Ngày Doanh nhân Việt Nam, 13/10/2012
            (Thơ Trương Vạn Thành., Rút từ tập “Chim họa mi sổ lồng”, Nhà xuất bản Văn học, 2013, tr 52.)
 

Bài thơ như một tự tuyên về cuộc sống; cũng lại như một khuyên nhủ bạn bè… Nó khiến tôi nhận ra, kinh doanh là CÕI THỰC để tồn tại; còn thơ là CÕI MƠ  để sống… Một cuộc sống như thế, được thế, mới thật đẹp, thật xứng đáng với CON NGƯỜI, dù cái vòng quay nhân – quả, nghiệp – sinh ở đời vốn vẫn đầy những gian lao trắc trở…

Người có chia sẻ trên kia là nhà thơ Trương Vạn Thành, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Thanh Hoa – Sông Đà ở Thanh Hóa, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Anh mới nghỉ kinh doanh năm 2022, nhưng từ năm 2008 đến nay, Trương Vạn Thành đã cho ra đời 6 tập thơ, đều do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành và hẳn sẽ còn làm nhiều thơ hơn nữa...

Ở đây, bởi không có điều kiện, nên tôi xin dẫn bình hai bài của nhà thơ dưới một cái tiêu đề: KHÚC KHẢI CA  HỌA MI  VÀ NỖI MIỀM THỰC – MƠ  GIỮA  ĐÔI  BỜ  CHÙA – CHỢ !...

 

 1.   Bài thơ:  CHIM HỌA MI SỔ LỒNG
 

Mỗi sáng

ngươi ngước nhìn bầu trời

tia nắng đầu tiên

chào ngày mới

hát ca vang lừng

lòng kiêu hãnh vô cùng

 

Ta nghe

trong tiếng ca của ngươi

suối reo

thác đổ

mây bay

hồ đầy

tiếng ca ngàn đời

lãnh địa

rừng hoang

quyền thế!

 

Ta nghe

trong tiếng ca của ngươi

cả niềm xót xa giam cầm

khát khao bầu trời

những ngày xưa thương nhớ…

 

Ta vỗ về ngươi

lồng gỗ đẹp

tấm khăn choàng thổ cẩm

cầu ngang, cóng nước điệu đàng

 

Những khi

ngươi hót

ta nấp sau khung cửa

đắm duối

mê si

Ôi... tình yêu một phía!

 

Những khi

tiếp tế cho ngươi

dọn lồng cho ngươi

kẻ nô lệ

là ta

khe khẽ trên môi

điệp khúc

bài ca hạnh phúc

 

Thế rồi

ngày ấy

ngươi đã bay đi

nơi cửa lồng ta chưa kịp đóng

Ta đứng trông theo

bóng ngươi hun hút phía chân trời

Gió từ cánh vút bay

phả vào mặt ta

mãi còn mơn man nơi sống mũi

 

Giận ngươi

kẻ khát khao tự do mông muội

để ta

mông muội đợi chờ

Cửa lồng vẫn mở

vẫn đầy nước ngọt lương khô

phòng khi ngươi có đói lòng...

Ta chẳng thèm lường gạt ngươi đâu

cớ sao không một lần trở lại?

 

Chỉ còn

mùi hương ngai ngái

chút phân khô

lồng hoang

bỏ ngỏ...
 

Họa mi!
 

Thành phố Thanh Hóa. 16/12/2011  (Rút từ tập “Chim họa Mi sổ lồng”. Nhà xuất bản Văn học. 2013, tr 58.)
                                

1.1. Đọc cái đầu đề bài thơ, hẳn cũng như ai, điều mà tôi nghĩ đến đầu tiên là câu chuyện chơi chim, một thú vui của bao người chứ chả cứ doanh nhân, cả dù đó là chim họa mi, với cả là khi rủi thay họa mi đã bay đi... bởi “cửa lồng ta chưa kịp đóng”...

Lại nữa, chơi chim ai cũng biết họa mi là chúa tể hót hay, càng nhốt, hót càng hay; nhưng không thể thuần dưỡng thả ngoài lồng được. Họa mi sống và hót hay trong lồng như một tù binh, nhưng nếu “sổ lồng” là nó sẽ bay đi như một chiến binh. Sự bay đi... vào trời xanh, mây trắng, rừng hoang... là bản ngã tồn sinh của họa mi, như một biểu tượng của khát vọng tự do, đã làm nên hình tượng về sự tự do tuyệt đối của thi phẩm!

Vậy nên, nhìn ngẫm cái đầu đề bài thơ, tôi đã tự hỏi, có ngẫu nhiên tình cờ không khi “Họa mi sổ lồng” đã thành một sự kiện thi tứ, cho thi phẩm này, của thi nhân? Câu chuyện “Họa mi sổ lồng” vụt thành câu chuyện tự do về khát vọng của con chim; cũng lại làm thức tỉnh câu chuyện về tự do và khát vọng của con người, mà cái làn ranh mất – còn, cái giới biên vô cùng và hữu hạn... vẫn chưa bao giờ ngưng nghỉ xung đột với nhau, hoán đổi cho nhau... như một bi ca tồn sinh của cuộc sống...

Tôi đọc bài thơ mà thức – nhận được cái thông điệp tư tưởng của thi phẩm, thức – nhận được cái rộng dài cao xa vô tận của “cõi mơ”, giữa biết bao trói buộc, chật hẹp, thấp hèn, của hữu hạn một đời nơi “cõi thực”... Vì thế mà tôi đã gọi bài thơ “Chim họa mi sổ lồng” là khúc khải ca của tự do!

1.2. Cái chất khải ca mà tôi thấy ở đây khởi từ khổ thơ đầu, chính ngay từ chữ đầu tiên của bài thơ! Tôi biết, tùy vào vị thế xã hội, mỗi người có thể đưa ra vô khối những quan niệm của họ về thơ; lại cũng từ động cơ mục đích nghiên cứu mà người ta có thể đưa ra định nghĩa không giống nhau về thơ; trong khi ai cũng thấy, xét đến cùng, thì rõ ràng thơ là chữ nghĩa, là nghệ thuật ngôn từ.
 

Xin hãy đọc:

 

“Mỗi sáng

ngươi ngước nhìn bầu trời

tia nắng đầu tiên

chào ngày mới

hát ca vang lừng

lòng kiêu hãnh vô cùng”
 

Đấy, bạn thấy chưa, đã cảm thấy cái nhịp điệu của từng câu thơ; cái âm giai trầm thống nỗi bi ca khởi đầu từ chữ “MỖI” ở đầu câu thơ, của bài thơ chưa?! Cứ từ chữ nghĩa, thì “Mỗi sáng/...” cũng như là “Sáng sáng/...” ; nhưng nếu tôi viết “Sáng sáng/...”, thì đó chỉ là một sự tả thực; không thể khiến hoài niệm trào dâng như “Mỗi sáng/...” là chữ mà thi phẩm đã dụng tâm chọn lựa. Bởi “ngươi” niềm “kiêu hãnh” ấy đã bay đi rồi, chỉ còn kia là chiếc lồng trống không, trùm lên “ta”, giam nhốt tâm tưởng “ta” mãi vẫn trong vang vọng hoài niệm tiếng ca của “ngươi” mỗi sáng...

“Kiêu hãnh”, phải! “Ngươi” chẳng cần che dấu giá trị đã làm nên bản thân “mi” ! Và, tôi bỗng nhận ra từ sự “sổ lồng” vượt thoát vào tự do của “ họa mi”, là tiếng ca chim để lại, đã như một cái lồng vô hình trùm nhốt, giam cầm “ta” trong đó...

 

1.3.  Thế rồi “Ta nghe...” ..., thế rồi “Ta nghe...”..., tiếng chim và niềm đau hoài vọng cứ tuôn trào hết lớp này qua lớp khác!...
 

Có khi:

Ta nghe

trong tiếng ca của ngươi

suối reo

thác đổ

mây bay

hồ đầy

tiếng ca ngàn đời

lãnh địa

rừng hoang

quyền thế!

 

Có lúc:

Ta nghe

trong tiếng ca của ngươi

cả niềm xót xa giam cầm

khát khao bầu trời

những ngày xưa thương nhớ…

.....

Và, thế là chất sử thi bắt đầu những phức điệu làm nên khải ca, hát lên những cung bậc, trạng huống mà “ta”“ngươi” đã trải qua suốt cả thi phẩm; mà tôi có thể cảm thức đủ đầy qua kết cấu câu chữ ít nhiều, dài ngắn của mỗi khúc đoạn tự do của bài thơ. Để rồi đứng lại là giai điệu dỗi hờn sau cuối... khiến tôi không khỏi chạnh lòng:

Giận ngươi

kẻ khát khao tự do mông muội

để ta

mông muội đợi chờ

...

Họa mi! ”

Và, tôi hiểu, rồi sẽ vẫn còn vang mãi nỗi khát khao tự do đến “mông nuội” , với vẫn một niềm hoài niệm đến khôn nguôi... Tôi hiểu “mông muội” trong ngữ huống trên đã biểu đạt được mức độ đắm say tình yêu tự do của cả “ngươi”“ta”, mà không phải là trạng thái “u mê” của ý thức tuyệt đối về giới hạn của nỗi niềm tự do ấy.

Bỗng... tôi lại nghe văng vẳng đâu đây sẻ chia của Thi nhân: 

 

 Thuyền ai ngự giữa dòng mơ – thực

Lưới cất, vàng reo…

                         cá lẫn trăng!”

Và, tôi tin, kẻ đã đứng vững vàng giữa dòng mơ – thực” hơn nửa cuộc trường sinh thế kỷ không thể không biết  “Tự do là cái tất yếu được nhận thức” (Heghen) khi viết xong bài thơ “Chim họa mi sổ lồng” này vào ngày 16 tháng 12 năm 2011...

2.  Doanh nhân Trương Vạn Thành giờ đã rút hẳn khỏi “chiến sự kinh doanh...” từng trải ngót nửa thế kỷ tranh đấu không chỉ vì lợi – quyền của bản thân mình. Tập thơ thứ 6, tập mới nhất của anh vừa được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành có tên là : TÔI ĐI GIỮA CHỢ VÀ CHÙA, như nói cho tôi biết phía trước anh vẫn còn đó một hành trình mới!...

 

2.1.  Đây, bài thơ thứ hai: TÔI ĐI GIỮA CHỢ VÀ CHÙA
 

Phố tôi bên chợ bên chùa

Chợ xưa chùa cũ tứ mùa bình yên

Đã đành ở cũng thành quen

Lao xao chợ với thâm nghiêm nâu sồng

 

Bên thì sắc sắc không không

Bên thì co kéo từng đồng sớm trưa

Bên thì mõ gõ lưa thưa

Bên thì tất bật rau dưa cua cà

 

Phố nhà hay có chim sa

Con chim tội nghiệp ai đà phóng sinh

Hòa trong tiếng kệ tiếng kinh

Tiếng người khất thực, tiếng mình lơ ngơ

 

Cửa chùa cây gạo bất ngờ

Sáng nay hoa nở ngẩn ngơ cả trời

Tình nồng oan trái chia phôi

Tim yêu cháy giữa bời bời tuôn mưa
 

Tôi đi giữa chợ và chùa...
 

3/2020
Thơ Trương Vạn Thành (Rút từ tập TÔI ĐI GIỮA CHỢ VÀ CHÙA, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2022, Tr.20-21)

2.2  Cũng phải thôi! Hơn mười năm sau tráng ca “Chim họa mi sổ lồng”..., giờ đây là “Tôi đi giữa chợ và chùa” với những nhịp bước đầy chiêm nghiệm. Tôi cũng mãi theo chân thi nhân,  đến gần nhập tâm cái khúc Sáu – Tám ông bà kia... thì bỗng giật mình khi vướng phải cái dấu phẩy (,) ở câu thứ 12 : “Tiếng người khất thực, tiếng mình lơ ngơ” của bài thơ 5 khổ, 17 câu. MỘT DẤU PHẨY THỨC TỈNH BIẾT MẤY NHÂN TÌNH!...

2.3.  Đó là tất cả Thức – Nhận bài thơ của tôi, mà chẳng nói thì ai đọc, dẫu chỉ một lần thôi, cũng nhận ra cuộc Vạn Thành của Trương thi sỹ  vốn vẫn luôn giữa một bên chợ, một bên chùa, với đủ cả “sắc sắc không không”  và  “co kéo từng đồng...”  trưa sớm! Ôi, nhân tình thế thái trong cuộc thế tồn sinh “Tiếng người khất thực, tiếng mình lơ ngơ”!...

“Lơ ngơ”? Làm sao lại lơ ngơ?!... Phải vì mong muốn... cũng đã ... mà chưa..., bởi đã mà vẫn còn chưa đặng, với vô thường của kiếp nhân sinh..., như cây gạo cửa chùa kia vẫn khiến đất trời ngẩn ngơ khi sắc hoa bừng đỏ..., như lửa yêu kia vẫn cháy giữa bời bời mưa tuôn!... Và ta vẫn “đi giữa chợ và chùa” với một thức – nhận nhắc nhở khát khao có thể làm được thêm gì nữa cho cuộc trường sinh muôn mãi nỗi niềm thực – mơ giữa đôi bờ CHÙA – CHỢ!...

LXL.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm