- Văn chương thế giới
- Bánh mì ấm | Konstantin Paustovsky
Bánh mì ấm | Konstantin Paustovsky
QUÀ TRUNG THU DÀNH CHO CÁC CHÁU
KONSTANTIN PAUSTOVSKY
Khi đơn vị kỵ binh đi qua làng Berezhki, một loạt đạn pháo của quân Đức ập xuống làm một con ngựa ô bị thương ở chân. Người chỉ huy để con ngựa tội nghiệp ở lại làng, còn phân đội đi xa hơn, những chiếc hàm thiếc ngựa phủ bụi kêu leng keng, xa hơn nữa, khuất dần sau những ngọn đồi, những gò đống, nơi cơn gió tạo nên những cơn sóng lúa.
Bác thợ xay Pankrat dắt con ngựa về chỗ mình. Chiếc cối xay đã lâu không làm việc, nhưng lớp bụi bột như đã bám chắc vào người bác Pankrat. Bụi như tạo nên một lớp vỏ xám trên chiếc áo khoác và chiếc mũ lưỡi trai chần bông của bác. Từ dưới chiếc mũ, Pankrat nhìn mọi người bằng đôi mắt sắc lẻm. Bác Pankrat nhanh nhẹn trong công việc, hay nổi quạu, mọi người vẫn coi bác như một gã phù thủy.
Pankrat đã chữa khỏi bệnh cho con ngựa. Nó ở lại chỗ cối xay, kiên nhẫn chở đất sét, phân và cọc - giúp bác Pankrat sửa chữa con đập.
Bác Pankrat không kiếm nổi thứ gì giúp chú ngựa qua cơn đói ăn, thế là chú chàng bắt đầu đi khắp các sân nhà để ăn xin. Chú ngựa đứng lại, mũi khịt khịt, lấy mõm cạ vào những cánh cổng, và, bạn thấy đấy, người ta sẽ mang cho chú những ngọn củ cải đường, bánh mì đen, hoặc thậm chí có cả cà rốt ngọt. Khắp làng người ta nói rằng chú ngựa không thuộc về ai cả, hay nói đúng hơn chú là tài sản của cả làng, mọi người coi đó là nghĩa vụ của mình phải nuôi chú. Chưa nói rằng, chú còn bị thương, phải mang vết thương vì kẻ thù.
Cậu bé Filka sống ở Berezhki với bà của mình, chú có biệt danh là "Chà, bạn!". Filka vốn ít nói, tính khí dụt dè, và câu đáp lại yêu thích của chú bé thường là: “Vâng, bạn yêu!”. Cho dù anh bạn hàng xóm gợi ý rằng chú nên đi cà kheo hay đi tìm những chiếc đui đạn đã ngả màu xanh lá cây, Filka trả lời bằng một giọng trầm giận dữ: “Sao ? Tìm cho chính mình a!”.Khi bị bà nội khiển trách vì sự vụng về, Filka quay đi và lẩm bẩm: “Nào thấy chưa! Thật phát ngán”.
Mùa đông năm nay thật ấm áp. Khói lơ lửng trong không khí. Tuyết rơi và ngay lập tức tan chảy.Những con quạ ướt nhẹp đậu trên các ống khói để hong lông cho mau khô. Chúng chen lấn, dúi dụi tán loạn vào nhau. Gần ống khói của nhà máy xay, nước không đóng băng mà đen sẫm lại, tĩnh lặng, và những viên băng nhỏ nổi lập lờ trong làn nước. Vào thời điểm này bác Pankrat đã sửa lại được chiếc cối xay gió và đang đi xay lúa mì. Các bà nội trợ phàn nàn bột đã hết, mỗi thứ chỉ còn ăn được hai hoặc ba ngày, ngoài ruộng thì lúa hãy còn xanh.
Vào một trong những ngày xám xịt ấm áp ấy, chú ngựa bị thương lấy mõm húc vào cánh cổng nhà bà của Filka. Bà cụ không có ở nhà, và Filka đang ngồi trên bàn nhai một mẩu bánh mì, rắc rất nhiều muối.
Filka miễn cưỡng đứng dậy đi ra cổng. Con ngựa chuyển từ chân này sang chân khác, như muốn hà hít hơi thơm của bánh mì. “Ô bạn! Ác quỷ!" - Filka hét lên và đánh tay vào mõm con ngựa. Con ngựa loạng choạng lùi lại, lắc đầu, còn Filka ném mẩu bánh mì xuống nền tuyết trắng, miệng hét váng:
-Không có nhiều cho chú mày đâu nhé! Khẩu phần của chú mày đây! Tự sục tuyết mà kiếm thứ ăn!
Sau tiếng hét ác ý ấy, những điều đáng kinh ngạc đã xảy ra ở Berezhki, mà cho đến bây giờ người ta vẫn hay kể lại bằng những cái lắc đầu ngán ngẩm, vì bản thân họ cũng không biết chuyện đó có xảy ra hay không.
Một giọt nước mắt lăn dài từ mắt con ngựa. Con ngựa kêu lên một cách thảm thiết, dướn mình, vẫy đuôi, và ngay lúc đó phía trên những tán cây trơ trụi, trên những lớp hàng rào và những chiếc ống khói, một cơn gió rít lên, tuyết bốc mù mịt, khiến Filka cảm thấy nghẹt cổ. Chú bé vội vã quay vào nhà, nhưng bằng mọi cách vẫn không thể tìm thấy bậc hiên - xung quanh đã đầy tuyết và tuyết quất thẳng vào mắt chú. Những sợi rơm phủ tuyết từ các mái nhà cuốn bay theo gió, những chuồng chim rơi vỡ tan, những ô cửa chớp tướp rách.
Những cột bụi tuyết bốc lên cao dần từ những cánh đồng xung quanh, cứ thế ào ào đổ về làng, xào xạc, xoay tròn, vượt đuổi nhau.
Cuối cùng Filka cũng lao được vào nhà, khóa chặt cửa lại, miệng nói: "Nào! thấy chưa! "nhưng vẫn nghiêng tai lắng nghe. Bão tuyết gào thét, điên cuồng, nhưng qua tiếng gầm của nó, Filka nhận ra một tiếng còi nhỏ và ngắn - đó là chiếc đuôi chú ngựa huýt gió khi giận dữ quất vào hai bên sườn.
Trận bão tuyết bắt đầu giảm dần vào buổi tối, và chỉ sau đó bà Filkin mới có thể từ hàng xóm về tới túp lều của mình. Và khi màn đêm buông xuống, bầu trời trở nên xanh như băng, những vì sao đứng lặng trên vòm trời, một cơn sương giá xuyên thấu qua ngôi làng.Không ai nhìn thấy cơn giá buốt ấy, nhưng mỗi người đều như nghe thấy tiếng gõ lộp cộp của nó trên nền tuyết cứng, nghe thấy nó tinh nghịch, ép chặt những khúc gỗ dày trên tường khiến những khúc gỗ kia nứt ra, kêu răng rắc.
Người bà vừa khóc vừa nói với Filka rằng có lẽ những cái giếng cũng đã đóng băng và giờ cái chết sắp xảy ra đang chờ họ. Không có nước, bột mì trong nhà mọi người không còn, và bây giờ chiếc cối xay cũng sẽ không thể hoạt động, bởi dòng sông đã đóng băng đến tận đáy.
Filka cũng khóc vì sợ hãi khi lũ chuột bắt đầu chạy ra khỏi nền nhà và vùi mình trong đống rơm dưới bếp, nơi vẫn còn chút hơi ấm. “A, lũ chúng mày! Đồ chết tiệt! "- Filka hét vào mặt lũ chuột, nhưng lũ chuột vẫn leo lên khỏi nền nhà. Filka trèo lên bếp, trùm chiếc áo khoác da cừu qua đầu, run rẩy khắp người, lắng nghe những lời than thở của bà nội.
"Một trăm năm trước, trận sương giá nghiêm trọng tương tự đã rơi xuống vùng ta-bà nội nói- giếng đóng băng,chim chóc chết vì cóng, rừng rú vườn tược cạn khô đến tận gốc. Mười năm sau, cỏ cây cũng không nở hoa nổi. Hạt dưới đất khô héo và biến mất. Vùng đất của chúng ta trở nên trần trụi. Mọi con vật đều tìm cách trốn chạy vì sợ đất hóa sa mạc.
- Tại sao giá rét lại ập tới?- Filka hỏi.
-Vì con người ác quá! - bà nội trả đáp – Có một người lính già đang đi ngang qua làng ta, hỏi xin bánh mì ở một nhà, và người chủ nhà, một gã nông dân độc ác,đang ngái ngủ, đã cáu kỉnh chỉ cho anh lính một chút vỏ bánh đã cũ. Gã ta không trao mẩu bánh vào tay người lính mà ném nó xuống sàn, miệng nói: “Của gã đấy! Nhai đi!”. Người lính nói: “Tôi không thể nhấc mẩu bánh lên khỏi sàn nhà được.Chân tôi bằng gỗ". "Vậy cái chân thật của anh đâu rồi?"- gã nông dân hỏi. “Tôi bị mất chân ở vùng núi Balkan trong trận chiến với Thổ Nhĩ Kỳ”- người lính đáp. "Không sao! Một khi anh bạn thực sự đói, anh bạn sẽ cúi xuống được”- gã nông dân cười -Không có ai hầu anh đâu”. Người lính rên rỉ, cúi gập người, nhặt mẩu vỏ bánh lên và nhìn - đó không phải là bánh mì, mà là một mẩu bột đã mốc xanh. Một thứ ăn vào rất độc! Khi đó, người lính đi ra ngoài sân, huýt sáo - và ngay lập tức một trận bão tuyết nổi lên, cơn bão xoáy tròn trong làng, những mái nhà bị xé toạc, tiếp theo một trận giá rét nghiêm trọng ập đến. Gã nông dân kia đã chết.
- Tại sao ông ấy chết? Filka khàn giọng hỏi.
- Vì trái tim gã ấy đã nguội lạnh, - bà cụ trả lời, dừng lại và nói thêm: - Cháu cần biết, một kẻ xấu, một tên tội phạm, đã gây điều xấu cho làng Berezhki của ta. Đó là lý do tại sao giá rét ập đổ về.
- Vậy bây giờ phải làm gì hở bà?"- từ dưới chiếc áo khoác da cừu Filka hỏi– Chả lẽ mình chịu chết sao?
- Tại sao lại chết? Cần phải hy vọng.
- Hy vọng điều gì?
- Người xấu sẽ sửa tính xấu của mình.
- Sửa như thế nào?- Filka hỏi, giọng đã có phần nức nở.
-Ông lão Pankrat ở cối xay biết cách đó. Ông là một người tinh tường, thông minh.Cần phải hỏi ông lão. Nhưng cháu có thể chạy đến cái cối xay gió trong lúc giá rét lạnh như thế này được không? Máu sẽ ngừng ngay lập tức đấy!
- Ông lão Pankrat ư! - Filka nói và im thít.
Ban đêm Filka trèo xuống khỏi hầm bếp sưởi. Bà nội đang ngủ ngồi trên băng ghế. Bên ngoài cửa sổ, không gian xanh ngắt, đặc quánh, thật hãi hùng.
Bầu trời quang đãng, phía trên các chỏm cây là mặt trăng được trang điểm như một cô dâu với vương miện màu hồng.
Filka quấn chiếc áo khoác da cừu quanh người, nhảy ra đường và chạy đến chỗ cối xay. Tuyết lạo xạo dưới chân, dường như có một đội thợ cưa vui tính đang hạ một nhóm cây bạch dương bên kia sông. Dường như không khí bị đóng băng và giữa trái đất và mặt trăng chỉ có một khoảng trống cháy bỏng, rõ ràng đến nỗi nếu một hạt bụi bay lên cách trái đất một km, thì vẫn có thể nhận ra được và hạt bụi sẽ phát sáng, lấp lánh như một ngôi sao nhỏ.
Những cây liễu đen đứng gần đập nước của cối xay chuyển sang màu xám vì lạnh. Cành của chúng sáng lấp lánh như thủy tinh. Không khí ùa ập chui vào ngực Filka. Chú bé không thể chạy được nữa, mà bước đi một cách nặng nề, đôi ủng nghiến nát những lớp tuyết.
Filka gõ lên khung cửa sổ căn nhà gỗ của ông lão Pankrat. Ngay lập tức trong khu chuồng phía sau nhà, con ngựa bị thương lao tới và gõ móng guốc trên mặt đất. Filka thở hổn hển, ngồi thụp xuống vì sợ hãi,như muốn lẩn trốn. Ông lão Pankrat mở cửa, túm lấy cổ áo Filka kéo vào nhà.
-Ngồi cạnh bếp cho ấm! -ông lão nói- Có chuyện gì thể, kể đi trước khi cháu bị dóng băng
Filka khóc lóc kể với ông lão Pankrat chú đã xúc phạm con ngựa bị thương ra sao và vì thế sương giá đã ập xuống ngôi làng như thế nào.
- Phải - Ông lão Pankrat thở dài, - cháu đã làm một việc không tốt! Hóa ra chỉ vì cháu mà tất cả mọi người đều phải khổ. Tại sao cháu làm tổn thương con ngựa? Vì sao vậy? Cháu thật ngốc!
Filka sụt sịt lấy tay áo lau mắt.
- Đừng khóc nữa!- Ông lão Pankrat nghiêm nghị nói - Tất cả bọn cháu chỉ được cái khóc là giỏi thôi. Một chút nghịch ngợm, bây giờ gây ra tai họa. Nhưng ông không thấy có gì đáng lo vì việc đó đâu. Cái cối xay của ông không làm việc như thể bị đóng băng vĩnh viễn, mà bột cũng không có, không có nước, và ông cũng không biết phải làm sao!
- Cháu phải làm gì bây giờ, ông Pankrat ơi? -Filka hỏi.
- Tìm cách thoát khỏi cơn lạnh giá. Sau đó, cháu sẽ xóa sạch tội lỗi với mọi người.Trước cả con ngựa bị thương nữa. Cháu sẽ là một người trong sạch, vui vẻ. Mọi người sẽ vỗ lưng cháu, tha thứ cho cháu. Hiểu chưa nào?
- Cháu hiểu rồi! -Filka đáp với giọng trầm.
- Vậy thì suy nghĩ đi!Ông sẽ dành cho cháu một giờ thêm mười lăm phút nhé!
Có một chú chim ác là tình cờ ghé đậu trong gian trái căn nhà gỗ của ông lão Pankrat. Không ngủ vì lạnh, con ác là đậu trên một dóng gỗ nghe trộm câu chuyện giữa hai ông cháu. Sau đó nó bay vụt lên, lao qua khoảng trống hàng hiên, bay thẳng về phía nam.Con chim ác là già dặn, trải đời cố tình bay sát mặt đất, vì từ những ngôi làng và khu rừng vẫn tỏa ra hơi ấm khiến chim ác là không sợ chết cóng. Không ai nhìn thấy nó, chỉ có con cáo trong khe núi thò mõm ra khỏi hang, quay mũi lại, nhận ra con chim ác là bay qua bầu trời như một bóng đen;sau đấy cáo quay vào hang, ngồi khá lâu,vừa gãi vừa ngẫm nghĩ:lạ thật, trong cái đêm hãi hung này không biết ả ác là kia lần mò đi đâu…
Vào lúc đó chú bé Filka đang ngồi trên ghế, bần thần nghĩ ngợi
-Chà,- cuối cùng ông lão Pankrat cũng lên tiềng, chân gí nát điếu thuốc lá hôi xì của mình-hết hạn rồi đấy cháu ơi- Hãy làm đi! Sẽ không gia hạn đâu.
- Ngay rạng sáng cháu sẽ tập hợp các bạn cháu trong làng lại, ông Pankrat ạ- Filka nói- Chúng cháu sẽ lấy xà beng, cuốc đá, rìu đập nát khối băng ở gần cối xay cho đến khi thấy nước và nước sẽ chảy lên bánh xe. Khi nước chảy, ông sẽ cho cối xay sẽ làm việc! Ông quay bánh xe hai mươi lần, nó sẽ nóng lên và bắt đầu xát gạo. Có nghĩa là sẽ có bột, nước, cứu giúp mọi người.
- Chà, cháu ta, nom vậy mà thông minh! – ông lão nói- Tất nhiên là dưới lớp băng, có nước. Nhưng nếu lớp băng quá dày, cháu sẽ làm gì đây?
- Vâng, có thể như vậy! -Filka nói. – Cháu và các bạn sẽ đập nát nó ra.
- Nếu chính cháu và các bạn cháu cũng đóng băng thì sao?
- Chúng cháu sẽ đốt lửa.
- Nhưng nếu các bạn cháu không đồng ý làm theo cách của cháu? Nếu chúng nói: “Được thôi ! Đó là lỗi do chính bạn gây ra. Vậy tự bạn giải quyết lấy!”
- Cứ cho là như thế đi! Cháu sẽ thuyết phục các bạn của cháu! Các bạn cháu tốt bụng cả mà!
-Cháu sẽ thuyết phục các bạn à! Được đấy! Còn ông sẽ nói chuyện với đám người già. Có thể đám các cụ sẽ sỏ tay vào găng và cầm lấy xà beng..
Vào những ngày băng giá, mặt trời hiện lên đỏ nọc giữa làn khói dày đặc. Và sáng nay, một mặt trời như thế mọc lên phía trên làng Berezhki. Ngoài sông đã nghe thấy tiếng xà beng. Những đám lửa bùng lên. Lũ lau nhau và những người già đã làm việc từ tờ mờ sáng, phá lớp băng ở gần nhà máy xay. Và không ai trong lúc vội vã để ý rằng yừ chiều hôm trước, bầu trời chuyển u ám với những đám mây thấp và một cơn gió ổn định, ấm áp thổi qua những hàng liễu xám. Còn khi đám người nhận ra thời tiết đã thay đổi, những cành liễu đã rã đông, và vui thay, rặng bạch dương ướt bên sông như cũng sột soạt reo vui. Không khí bốc mùi của mùa xuân, của phân tro.
Gió thổi từ phía nam tới. Gió trở nên ấm hơn mỗi giờ. Những tảng băng rơi xuống từ mái nhà, phát ra với tiếng kêu như kính vỡ.
Những con quạ vụt ra từ dưới các khe kẹt và lại hong mình cạnh các ống khói, chen lấn nhau, kêu chí chóe.
Chỉ có con chim ác là già không xuất hiện.Mãi sẩm tối nó mới bay tới, khi băng bắt đầu lắng xuống vì hơi ấm, công việc ở nhà máy xay diễn ra nhanh chóng và dòng nước sẫm màu đầu tiên đã xuất hiện.
Các chú bé kéo chiếc xe ba bánh miệng hét váng "Hura! Hurra!”. Ông lão Pankrat cho rằng, nếu không có cơn gió ấm áp thì có lẽ băng giá không buông tha đám trẻ và người già. Còn con chim ác là ngồi trên cây liễu phía trên đập, hót líu lo, lắc đuôi, cúi chào tứ phía và nói điều gì đó, nhưng không ai ngoài bầy quạ hiểu được điều nó nói. Con chim ác kể rằng nó đã bay đến vùng biển ấm áp, nơi ngọn gió mùa hè đang ngủ quên trên núi, đánh thức ngọn gió dậy, nói với ngọn gió về trận sương giá nghiêm trọng, cầu xin gió xua đuổi băng giá đi, để giúp đỡ mọi người.
Những cơn gió như không dám từ chối chim ác là, gió lao qua cánh đồng, vừa rít vừa như cười sung sướng. Và nếu bạn lắng nghe kỹ, bạn có thể nhận ra nước ấm sủi bọt, róc rách chảy dọc theo các khe núi dưới lớp tuyết, rửa sạch rễ những cây linh chi, phá vỡ băng trên sông.
Mọi người đều biết rằng chim ác là loài chim nhiều lời nhất trên thế gian này, và do đó lũ quạ không tin vào lời của chim ác là, đám quạ vẫn chen chúc nhau cạnh những chiếc ống khói, thì thầm đủ để nhau nghe: con mụ ác là nỏ mồm ấy lại nói dối một lần nữa..
Vì vậy, cho đến nay, không ai biết liệu con chim ác đã nói sự thật, hay liệu nó bịa ra tất cả những điều này để tự khoe khoang. Chỉ có một điều rõ ràng là vào buổi tối, băng nứt vỡ, tan ra, những chú nhỏ và những người già có nước cho chiếc cối xay chạy phát ra những tiếng ồn..
Cái bánh xe cũ lại kêu cót két, những viên băng văn ra khỏi đó, cái bánh xe tiếp tục quay một cách chậm rãi. Những hạt lúa mạch bị nghiền nát, rồi cái bánh xe quay nhanh hơn, và đột nhiên cả chiếc cối xay cũ rung chuyển, bắt đầu rung lắc, gõ nhịp cọt kẹt, để xay hạt.
Ông lão Pankrat đảo hạt và bột mì nóng từ dưới cối xay chảy vào bao tải. Những người phụ nữ nhúng bàn tay ướp lạnh của họ vào đó và cất tiếng cười.
Trong các mảnh sân củi bạch dương được chẻ nhỏ cất tiếng kêu như tiếng reo. Những túp lều rực sáng bếp lửa hồng. Những người phụ nữ đang nhào bột. Và mọi thứ mang sự sống trong căn lều: những chú nhóc, mèo, thậm chí cả chuột, tất cả như đều lăng xăng bên các bà nội trợ. Với bàn tay trắng xóa bột, các bà nội trợ đánh vào lưng các chú nhỏ để chúng không làm ảnh hưởng tới công việc…
Đêm sập xuống, khắp làng ngào ngạt mùi bánh mì ấm nóng với lớp vỏ hồng hào, có lá bắp cải cháy dưới đáy, đến nỗi ngay cả những chú cáo cũng bò ra khỏi lỗ, ngồi trong tuyết, run rẩy và rên rỉ khe khẽ, nghĩ cách xoay sở để ăn trộm của mọi người ít nhất một mẩu nhỏ của thứ bánh mì tuyệt vời này.
Sáng hôm sau, Filka cùng các bạn đến nhà máy. Gió lùa những đám mây lững lờ trên bầu trời xanh và không cho phép chúng ngưng lại lấy hơi dù chỉ trong phút chốc, và do đó những bóng đen lạnh lẽo, rồi những vệt nắng nóng lần lượt lướt qua mặt đất.
Filka đang kéo một ổ bánh mì mới ra lò, còn một cậu bé rất nhỏ, chú Nikolka, đang cầm một cái máy lắc muối bằng gỗ có những hạt muối vàng thô. Ông lão Pankrat bước ra ngưỡng cửa, cất tiếng hỏi:
- Hiện tượng gì đây? Bạn có thể mang cho tôi một ít bánh mì và muối không? Vì những công lao như thế đấy?
- Ồ không! Lũ nhỏ hét lên. – Ông là người đặc biệt. Còn kia là một con ngựa bị thương. Chú ngựa của Filka mà. Chúng cháu muốn tới hòa giải đôi bên.
- Chà! Ông lão Pankrat nói - không chỉ một người cần một lời xin lỗi. Bây giờ ông sẽ giới thiệu với các cháu một con ngựa thật.
Ông lão Pankrat mở cổng nhà kho và thả chú ngựa ra. Con ngựa thủng thỉnh ra khỏi khu nhà kho, vươn đầu, lắc gáy, hình như nó đã ngửi thấy mùi bánh mì nóng. Filka bẻ ổ bánh mì, cho thêm muối từ cái máy lắc muối và đưa cho con ngựa. Nhưng con ngựa không lấy bánh mì, nó bắt đầu chuyển chân một cách tinh vi và quay trở lại chuồng. Filka sợ hãi. Cậu bé khóc lớn trước cả làng.
Bọn nhóc thì thầm và im lặng, còn ông lão Pankrat vỗ vào cổ con ngựa, nói:
- Đừng sợ, Nhóc! Filka không phải là một người xấu. Tại sao lại xúc phạm chú ấy? Nhận bánh mì đi, và hãy làmj hòa!
Con ngựa lúc lắc đầu, vẻ nghĩ ngợi, sau đó nó cẩn thận vươn cổ ra và cuối cùng nhận chiếc bánh mì từ tay Filka bằng cặp môi mềm mại. Ăn một miếng, nó hít hà ngửi ngửi Filka và ăn miếng thứ hai. Filka cười toe toét trong nước mắt, còn chú ngựa thì nhai bánh mì, khịt khịt mũi. Ănn hết ổ bánh mì, nó gục đầu vào vai Filka, thở dài và nhắm mắt vì no và sung sướng.
Mọi người đều cười và vui mừng. Chỉ có con chim ác là già ngồi trên cành liễu có vẻ cáu kỉnh: nó sẽ lại phải khoe khoang rằng một mình nó đã hòa giải được con ngựa với Filka. Nhưng không ai nghe con ác là nói và không muốn hiểu. con chim ác là càng trở nên tức giận vì điều này, nó liền kêu quàng quạc như phát ra một tràng đạn sung máy….
Năm 1945.
TÔ HOÀNG (chuyển ngữ)