TIN TỨC

Bánh mì ấm | Konstantin Paustovsky

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-09-08 09:30:12
mail facebook google pos stwis
716 lượt xem

QUÀ TRUNG THU DÀNH CHO CÁC CHÁU

KONSTANTIN PAUSTOVSKY 

Khi đơn vị kỵ binh đi qua làng Berezhki, một loạt đạn pháo của quân Đức ập xuống làm một con ngựa ô bị thương ở chân. Người chỉ huy để con ngựa tội nghiệp ở lại làng, còn phân đội đi xa hơn, những chiếc hàm thiếc ngựa phủ bụi kêu leng keng, xa hơn nữa, khuất dần sau những ngọn đồi, những gò đống, nơi cơn gió tạo nên những cơn sóng lúa.

Bác thợ xay Pankrat dắt con ngựa về chỗ mình. Chiếc cối xay đã lâu không làm việc, nhưng lớp bụi bột như đã bám chắc vào người bác Pankrat. Bụi như tạo nên một lớp vỏ xám trên chiếc áo khoác và chiếc mũ lưỡi trai chần bông của bác. Từ dưới chiếc mũ, Pankrat nhìn mọi người bằng đôi mắt sắc lẻm. Bác Pankrat nhanh nhẹn trong công việc, hay nổi quạu, mọi người vẫn coi bác như một gã phù thủy.

Pankrat đã chữa khỏi bệnh cho con ngựa. Nó ở lại chỗ cối xay, kiên nhẫn chở đất sét, phân và cọc - giúp bác Pankrat sửa chữa con đập.

Bác Pankrat không kiếm nổi thứ gì giúp chú ngựa qua cơn đói ăn, thế là chú chàng bắt đầu đi khắp các sân nhà để ăn xin. Chú ngựa đứng lại, mũi khịt khịt, lấy mõm cạ vào những cánh cổng, và, bạn thấy đấy, người ta sẽ mang cho chú những ngọn củ cải đường, bánh mì đen, hoặc thậm chí có cả cà rốt ngọt. Khắp làng người ta nói rằng chú ngựa không thuộc về ai cả, hay nói đúng hơn chú là tài sản của cả làng, mọi người coi đó là nghĩa vụ của mình phải nuôi chú. Chưa nói rằng, chú còn bị thương, phải mang vết thương vì kẻ thù.

Cậu bé Filka sống ở Berezhki với bà của mình, chú có biệt danh là "Chà, bạn!". Filka vốn ít nói, tính khí dụt dè, và câu đáp lại yêu thích của chú bé thường là: “Vâng, bạn yêu!”. Cho dù anh bạn hàng xóm gợi ý rằng chú nên đi cà kheo hay đi tìm những chiếc đui đạn đã ngả màu xanh lá cây, Filka trả lời bằng một giọng trầm giận dữ: “Sao ? Tìm cho chính mình a!”.Khi bị bà nội khiển trách vì sự vụng về, Filka quay đi và lẩm bẩm: “Nào thấy chưa! Thật phát ngán”.

Mùa đông năm nay thật ấm áp. Khói lơ lửng trong không khí. Tuyết rơi và ngay lập tức tan chảy.Những con quạ ướt nhẹp đậu trên các ống khói để hong lông cho mau khô. Chúng chen lấn, dúi dụi tán loạn vào nhau. Gần ống khói của nhà máy xay, nước không đóng băng mà đen sẫm lại, tĩnh lặng, và những viên băng nhỏ nổi lập lờ trong làn nước. Vào thời điểm này bác Pankrat đã sửa lại được chiếc cối xay gió và đang đi xay lúa mì. Các bà nội trợ phàn nàn bột đã hết, mỗi thứ chỉ còn ăn được hai hoặc ba ngày, ngoài ruộng thì lúa hãy còn xanh. 

Vào một trong những ngày xám xịt ấm áp ấy, chú ngựa bị thương lấy mõm húc vào cánh cổng nhà bà của Filka. Bà cụ không có ở nhà, và Filka đang ngồi trên bàn nhai một mẩu bánh mì, rắc rất nhiều muối.

Filka miễn cưỡng đứng dậy đi ra cổng. Con ngựa chuyển từ chân này sang chân khác, như muốn hà hít hơi thơm của bánh mì. “Ô bạn! Ác quỷ!" - Filka hét lên và đánh tay vào mõm con ngựa. Con ngựa loạng choạng lùi lại, lắc đầu, còn Filka ném mẩu bánh mì xuống nền tuyết trắng, miệng hét váng:

-Không có nhiều cho chú mày đâu nhé! Khẩu phần của chú mày đây! Tự sục tuyết mà kiếm thứ ăn!  

Sau tiếng hét ác ý ấy, những điều đáng kinh ngạc đã xảy ra ở Berezhki, mà cho đến bây giờ người ta vẫn hay kể lại bằng những cái lắc đầu ngán ngẩm, vì bản thân họ cũng không biết chuyện đó có xảy ra hay không.

Một giọt nước mắt lăn dài từ mắt con ngựa. Con ngựa kêu lên một cách thảm thiết, dướn mình, vẫy đuôi, và ngay lúc đó phía trên những tán cây trơ trụi, trên những lớp hàng rào và những chiếc ống khói, một cơn gió rít lên, tuyết bốc mù mịt, khiến Filka cảm thấy nghẹt cổ. Chú bé vội vã quay vào nhà, nhưng bằng mọi cách vẫn không thể tìm thấy bậc hiên - xung quanh đã đầy tuyết và tuyết quất thẳng vào mắt chú. Những sợi rơm phủ tuyết từ các mái nhà cuốn bay theo gió, những chuồng chim rơi vỡ tan, những ô cửa chớp tướp rách. 

Những cột bụi tuyết bốc lên cao dần từ những cánh đồng xung quanh, cứ thế ào ào đổ về làng, xào xạc, xoay tròn, vượt đuổi nhau.

Cuối cùng Filka cũng lao được vào nhà, khóa chặt cửa lại, miệng nói: "Nào! thấy chưa! "nhưng vẫn nghiêng tai lắng nghe. Bão tuyết gào thét, điên cuồng, nhưng qua tiếng gầm của nó, Filka nhận ra một tiếng còi nhỏ và ngắn - đó là chiếc đuôi chú ngựa huýt gió khi giận dữ quất vào hai bên sườn.

Trận bão tuyết bắt đầu giảm dần vào buổi tối, và chỉ sau đó bà Filkin mới có thể từ hàng xóm về tới túp lều của mình. Và khi màn đêm buông xuống, bầu trời trở nên xanh như băng, những vì sao đứng lặng trên vòm trời, một cơn sương giá xuyên thấu qua ngôi làng.Không ai nhìn thấy cơn giá buốt ấy, nhưng mỗi người đều như nghe thấy tiếng gõ lộp cộp của nó trên nền tuyết cứng, nghe thấy nó tinh nghịch, ép chặt những khúc gỗ dày trên tường khiến  những khúc gỗ kia nứt ra, kêu răng rắc.

Người bà vừa khóc vừa nói với Filka rằng có lẽ những cái giếng cũng đã đóng băng và giờ cái chết sắp xảy ra đang chờ họ. Không có nước, bột mì trong nhà mọi người không còn, và bây giờ chiếc cối xay cũng sẽ không thể hoạt động, bởi dòng sông đã đóng băng đến tận đáy.

Filka cũng khóc vì sợ hãi khi lũ chuột bắt đầu chạy ra khỏi nền nhà và vùi mình trong đống rơm dưới bếp, nơi vẫn còn chút hơi ấm. “A, lũ chúng mày! Đồ chết tiệt! "- Filka hét vào mặt lũ chuột, nhưng lũ chuột vẫn leo lên khỏi nền nhà. Filka trèo lên bếp, trùm chiếc áo khoác da cừu qua đầu, run rẩy khắp người, lắng nghe những lời than thở của bà nội.

"Một trăm năm trước, trận sương giá nghiêm trọng tương tự đã rơi xuống vùng ta-bà nội nói- giếng đóng băng,chim chóc chết vì cóng, rừng rú vườn tược cạn khô đến tận gốc. Mười năm sau, cỏ cây cũng không nở hoa nổi. Hạt dưới đất khô héo và biến mất. Vùng đất của chúng ta trở nên trần trụi. Mọi con vật đều tìm cách trốn chạy vì sợ đất hóa sa mạc. 

- Tại sao giá rét lại ập tới?- Filka hỏi.

-Vì con người ác quá! - bà nội trả đáp – Có một người lính già đang đi ngang qua làng ta, hỏi xin bánh mì ở một nhà, và người chủ nhà, một gã nông dân độc ác,đang ngái ngủ, đã cáu kỉnh chỉ cho anh lính một chút vỏ bánh đã cũ. Gã ta không trao mẩu bánh vào tay người lính mà ném nó xuống sàn, miệng nói: “Của gã đấy! Nhai đi!”. Người lính nói: “Tôi không thể nhấc mẩu bánh lên khỏi sàn nhà được.Chân tôi bằng gỗ". "Vậy cái chân thật của anh đâu rồi?"- gã nông dân hỏi. “Tôi bị mất chân ở vùng núi Balkan trong trận chiến với Thổ Nhĩ Kỳ”- người lính đáp. "Không sao! Một khi anh bạn thực sự đói, anh bạn sẽ cúi xuống được”- gã nông dân cười -Không có ai hầu anh đâu”. Người lính rên rỉ, cúi gập người, nhặt mẩu vỏ bánh lên và nhìn - đó không phải là bánh mì, mà là một mẩu bột đã mốc xanh. Một thứ ăn vào rất độc! Khi đó, người lính đi ra ngoài sân, huýt sáo - và ngay lập tức một trận bão tuyết nổi lên, cơn bão xoáy tròn trong làng, những mái nhà bị xé toạc, tiếp theo một trận giá rét nghiêm trọng ập đến. Gã nông dân kia đã chết.

- Tại sao ông ấy chết? Filka khàn giọng hỏi.

- Vì trái tim gã ấy đã nguội lạnh, - bà cụ trả lời, dừng lại và nói thêm: - Cháu cần biết, một kẻ xấu, một tên tội phạm, đã gây điều xấu cho làng Berezhki của ta. Đó là lý do tại sao giá rét ập đổ về.

- Vậy bây giờ phải làm gì hở bà?"- từ dưới chiếc áo khoác da cừu Filka hỏi– Chả lẽ mình chịu chết sao? 

- Tại sao lại chết? Cần phải hy vọng.

- Hy vọng điều gì?

- Người xấu sẽ sửa tính xấu của mình.

- Sửa như thế nào?- Filka hỏi, giọng đã có phần nức nở.

-Ông lão Pankrat ở cối xay biết cách đó. Ông là một người tinh tường, thông minh.Cần phải hỏi ông lão. Nhưng cháu có thể chạy đến cái cối xay gió trong lúc giá rét lạnh như thế này được không? Máu sẽ ngừng ngay lập tức đấy! 

- Ông lão Pankrat ư! - Filka nói và im thít.

Ban đêm Filka trèo xuống khỏi hầm bếp sưởi. Bà nội đang ngủ ngồi trên băng ghế. Bên ngoài cửa sổ, không gian xanh ngắt, đặc quánh, thật hãi hùng.

Bầu trời quang đãng, phía trên các chỏm cây là mặt trăng được trang điểm như một cô dâu với vương miện màu hồng.

Filka quấn chiếc áo khoác da cừu quanh người, nhảy ra đường và chạy đến chỗ cối xay. Tuyết lạo xạo dưới chân, dường như có một đội thợ cưa vui tính đang hạ một nhóm cây bạch dương bên kia sông. Dường như không khí bị đóng băng và giữa trái đất và mặt trăng chỉ có một khoảng trống cháy bỏng, rõ ràng đến nỗi nếu một hạt bụi bay lên cách trái đất một km, thì vẫn có thể nhận ra được và hạt bụi sẽ phát sáng, lấp lánh như một ngôi sao nhỏ.

Những cây liễu đen đứng gần đập nước của cối xay chuyển sang màu xám vì lạnh. Cành của chúng sáng lấp lánh như thủy tinh. Không khí ùa ập chui vào ngực Filka. Chú bé không thể chạy được nữa, mà bước đi một cách nặng nề, đôi ủng nghiến nát những lớp tuyết.

Filka gõ lên khung cửa sổ căn nhà gỗ của ông lão Pankrat. Ngay lập tức trong khu chuồng phía sau nhà, con ngựa bị thương lao tới và gõ móng guốc trên mặt đất. Filka thở hổn hển, ngồi thụp xuống vì sợ hãi,như muốn lẩn trốn. Ông lão Pankrat mở cửa, túm lấy cổ áo Filka kéo vào nhà.

-Ngồi cạnh bếp cho ấm! -ông lão nói- Có chuyện gì thể, kể đi trước khi cháu bị dóng băng 

Filka khóc lóc kể với ông lão Pankrat chú đã xúc phạm con ngựa bị thương ra sao và vì thế sương giá đã ập xuống ngôi làng như thế nào.

- Phải - Ông lão Pankrat thở dài, - cháu đã làm một việc không tốt! Hóa ra chỉ vì cháu mà tất cả mọi người đều phải khổ. Tại sao cháu làm tổn thương con ngựa? Vì sao vậy? Cháu thật ngốc!

Filka sụt sịt lấy tay áo lau mắt.

- Đừng khóc nữa!- Ông lão Pankrat nghiêm nghị nói - Tất cả bọn cháu chỉ được cái khóc là giỏi thôi. Một chút nghịch ngợm, bây giờ gây ra tai họa. Nhưng ông không thấy có gì đáng lo vì việc đó đâu. Cái cối xay của ông không làm việc như thể bị đóng băng vĩnh viễn, mà bột cũng không có, không có nước, và ông cũng không biết phải làm sao!

- Cháu phải làm gì bây giờ, ông Pankrat ơi? -Filka hỏi.

- Tìm cách thoát khỏi cơn lạnh giá. Sau đó, cháu sẽ xóa sạch tội lỗi với mọi người.Trước cả con ngựa bị thương nữa. Cháu sẽ là một người trong sạch, vui vẻ. Mọi người sẽ vỗ lưng cháu, tha thứ cho cháu. Hiểu chưa nào?

- Cháu hiểu rồi! -Filka đáp với giọng trầm.

- Vậy thì suy nghĩ đi!Ông sẽ dành cho cháu một giờ thêm mười lăm phút nhé!

Có một chú chim ác là tình cờ ghé đậu trong gian trái căn nhà gỗ của ông lão Pankrat. Không ngủ vì lạnh, con ác là đậu trên một dóng gỗ nghe trộm câu chuyện giữa hai ông cháu. Sau đó nó bay vụt lên, lao qua khoảng trống hàng hiên, bay thẳng về phía nam.Con chim ác là già dặn, trải đời cố tình bay sát mặt đất, vì từ những ngôi làng và khu rừng vẫn tỏa ra hơi ấm khiến chim ác là không sợ chết cóng. Không ai nhìn thấy nó, chỉ có con cáo trong khe núi thò mõm ra khỏi hang, quay mũi lại, nhận ra con chim ác là bay qua bầu trời như một bóng đen;sau đấy cáo quay vào hang, ngồi khá lâu,vừa gãi vừa ngẫm nghĩ:lạ thật, trong cái đêm hãi hung này không biết ả ác là kia lần mò đi đâu…  

Vào lúc đó chú bé Filka đang ngồi trên ghế, bần thần nghĩ ngợi

-Chà,- cuối cùng ông lão Pankrat cũng lên tiềng, chân gí nát điếu thuốc lá hôi xì của mình-hết hạn rồi đấy cháu ơi- Hãy làm đi! Sẽ không gia hạn đâu.

- Ngay rạng sáng cháu sẽ tập hợp các bạn cháu trong làng lại, ông Pankrat ạ- Filka nói- Chúng cháu sẽ lấy xà beng, cuốc đá, rìu đập nát khối băng  ở gần cối xay cho đến khi thấy nước và nước sẽ chảy lên bánh xe. Khi nước chảy, ông sẽ cho cối xay sẽ làm việc! Ông quay bánh xe hai mươi lần, nó sẽ nóng lên và bắt đầu xát gạo. Có nghĩa là sẽ có bột, nước, cứu giúp mọi người.

- Chà, cháu ta, nom vậy mà thông minh! – ông lão nói- Tất nhiên là dưới lớp băng, có nước. Nhưng nếu lớp băng quá dày, cháu sẽ làm gì đây?

- Vâng, có thể như vậy! -Filka nói. – Cháu và các bạn sẽ đập nát nó ra. 

- Nếu chính cháu và các bạn cháu cũng đóng băng thì sao?

- Chúng cháu sẽ đốt lửa.

- Nhưng nếu các bạn cháu không đồng ý làm theo cách của cháu? Nếu chúng nói: “Được thôi ! Đó là lỗi do chính bạn gây ra. Vậy tự bạn giải quyết lấy!” 

- Cứ cho là như thế đi! Cháu sẽ thuyết phục các bạn của cháu! Các bạn cháu tốt bụng cả mà! 

-Cháu sẽ thuyết phục các bạn à! Được đấy! Còn ông sẽ nói chuyện với đám người già. Có thể đám các cụ sẽ sỏ tay vào găng và cầm lấy xà beng..


Vào những ngày băng giá, mặt trời hiện lên đỏ nọc giữa làn khói dày đặc. Và sáng nay, một mặt trời như thế mọc lên phía trên làng Berezhki. Ngoài sông đã nghe thấy tiếng xà beng. Những đám lửa bùng lên. Lũ lau nhau và những người già đã làm việc từ tờ mờ sáng, phá lớp băng ở gần nhà máy xay. Và không ai trong lúc vội vã để ý rằng yừ chiều hôm trước, bầu trời chuyển u ám với những đám mây thấp và một cơn gió ổn định, ấm áp thổi qua những hàng liễu xám. Còn khi đám người nhận ra thời tiết đã thay đổi, những cành liễu đã rã đông, và vui thay, rặng bạch dương ướt bên sông như cũng sột soạt reo vui. Không khí bốc mùi của mùa xuân, của phân tro.

Gió thổi từ phía nam tới. Gió trở nên ấm hơn mỗi giờ. Những tảng băng rơi xuống từ mái nhà, phát ra với tiếng kêu như kính vỡ.

Những con quạ vụt ra từ dưới các khe kẹt và lại hong mình cạnh các ống khói, chen lấn nhau, kêu chí chóe.

Chỉ có con chim ác là già không xuất hiện.Mãi sẩm tối nó mới bay tới, khi băng bắt đầu lắng xuống vì hơi ấm, công việc ở nhà máy xay diễn ra nhanh chóng và dòng nước sẫm màu đầu tiên đã xuất hiện.

Các chú bé kéo chiếc xe ba bánh miệng hét váng "Hura! Hurra!”. Ông lão Pankrat cho rằng, nếu không có cơn gió ấm áp thì có lẽ băng giá không buông tha đám trẻ và người già. Còn con chim ác là ngồi trên cây liễu phía trên đập, hót líu lo, lắc đuôi, cúi chào tứ phía và nói điều gì đó, nhưng không ai ngoài bầy quạ hiểu được điều nó nói. Con chim ác kể rằng nó đã bay đến vùng biển ấm áp, nơi ngọn gió mùa hè đang ngủ quên trên núi, đánh thức ngọn gió dậy, nói với ngọn gió về trận sương giá nghiêm trọng, cầu xin gió xua đuổi băng giá đi, để giúp đỡ mọi người.

Những cơn gió như không dám từ chối chim ác là, gió lao qua cánh đồng, vừa rít vừa như cười sung sướng. Và nếu bạn lắng nghe kỹ, bạn có thể nhận ra nước ấm sủi bọt, róc rách chảy dọc theo các khe núi dưới lớp tuyết, rửa sạch rễ những cây linh chi, phá vỡ băng trên sông.

Mọi người đều biết rằng chim ác là loài chim nhiều lời nhất trên thế gian này, và do đó lũ quạ không tin vào lời của chim ác là, đám quạ vẫn chen chúc nhau cạnh những chiếc ống khói, thì thầm đủ để nhau nghe: con mụ ác là nỏ mồm ấy lại nói dối một lần nữa.. 

Vì vậy, cho đến nay, không ai biết liệu con chim ác đã nói sự thật, hay liệu nó bịa ra tất cả những điều này để tự khoe khoang. Chỉ có một điều rõ ràng là vào buổi tối, băng nứt vỡ, tan ra, những chú nhỏ và những người già có nước cho chiếc cối xay chạy phát ra những tiếng ồn.. 

Cái bánh xe cũ lại kêu cót két, những viên băng văn ra khỏi đó, cái bánh xe tiếp tục quay một cách chậm rãi. Những hạt lúa mạch bị nghiền nát, rồi cái bánh xe quay nhanh hơn, và đột nhiên cả chiếc cối xay cũ rung chuyển, bắt đầu rung lắc, gõ nhịp cọt kẹt, để xay hạt.

Ông lão Pankrat đảo hạt và bột mì nóng từ dưới cối xay chảy vào bao tải. Những người phụ nữ nhúng bàn tay ướp lạnh của họ vào đó và cất tiếng cười.

Trong các mảnh sân củi bạch dương được chẻ nhỏ cất tiếng kêu như tiếng reo. Những túp lều rực sáng bếp lửa hồng. Những người phụ nữ đang nhào bột. Và mọi thứ mang sự sống trong căn lều: những chú nhóc, mèo, thậm chí cả chuột, tất cả như đều lăng xăng bên các bà nội trợ. Với bàn tay trắng xóa bột, các bà nội trợ đánh vào lưng các chú nhỏ để chúng không làm ảnh hưởng tới công việc…

Đêm sập xuống, khắp làng ngào ngạt mùi bánh mì ấm nóng với lớp vỏ hồng hào, có lá bắp cải cháy dưới đáy, đến nỗi ngay cả những chú cáo cũng bò ra khỏi lỗ, ngồi trong tuyết, run rẩy và rên rỉ khe khẽ, nghĩ cách xoay sở để ăn trộm của mọi người ít nhất một mẩu nhỏ của thứ bánh mì tuyệt vời này.

Sáng hôm sau, Filka cùng các bạn đến nhà máy. Gió lùa những đám mây lững lờ trên bầu trời xanh và không cho phép chúng ngưng lại lấy hơi dù chỉ trong phút chốc, và do đó những bóng đen lạnh lẽo, rồi những vệt nắng nóng lần lượt lướt qua mặt đất. 

Filka đang kéo một ổ bánh mì mới ra lò, còn một cậu bé rất nhỏ, chú Nikolka, đang cầm một cái máy lắc muối bằng gỗ có những hạt muối vàng thô. Ông lão Pankrat bước ra ngưỡng cửa, cất tiếng hỏi:

- Hiện tượng gì đây? Bạn có thể mang cho tôi một ít bánh mì và muối không? Vì những công lao như thế đấy?

- Ồ không! Lũ nhỏ hét lên. – Ông là người đặc biệt. Còn kia là một con ngựa bị thương. Chú ngựa của Filka mà. Chúng cháu muốn tới hòa giải đôi bên.

- Chà! Ông lão Pankrat nói - không chỉ một người cần một lời xin lỗi. Bây giờ ông sẽ giới thiệu với các cháu một con ngựa thật.

Ông lão Pankrat mở cổng nhà kho và thả chú ngựa ra. Con ngựa thủng thỉnh ra khỏi khu nhà kho, vươn đầu, lắc gáy, hình như nó đã ngửi thấy mùi bánh mì nóng. Filka bẻ ổ bánh mì, cho thêm muối từ cái máy lắc muối và đưa cho con ngựa. Nhưng con ngựa không lấy bánh mì, nó bắt đầu chuyển chân một cách tinh vi và quay trở lại chuồng. Filka sợ hãi. Cậu bé khóc lớn trước cả làng.

Bọn nhóc thì thầm và im lặng, còn ông lão Pankrat vỗ vào cổ con ngựa, nói:

- Đừng sợ, Nhóc! Filka không phải là một người xấu. Tại sao lại xúc phạm chú ấy? Nhận bánh mì đi, và hãy làmj hòa!

Con ngựa lúc lắc đầu, vẻ nghĩ ngợi, sau đó nó cẩn thận vươn cổ ra và cuối cùng nhận chiếc bánh mì từ tay Filka bằng cặp môi mềm mại. Ăn một miếng, nó hít hà ngửi ngửi Filka và ăn miếng thứ hai. Filka cười toe toét trong nước mắt, còn chú ngựa thì nhai bánh mì, khịt khịt mũi. Ănn hết ổ bánh mì, nó gục đầu vào vai Filka, thở dài và nhắm mắt vì no và sung sướng.

Mọi người đều cười và vui mừng. Chỉ có con chim ác là già ngồi trên cành liễu có vẻ cáu kỉnh: nó sẽ lại phải khoe khoang rằng một mình nó đã hòa giải được con ngựa với Filka. Nhưng không ai nghe con ác là nói và không muốn hiểu. con chim ác là càng trở nên tức giận vì điều này, nó liền kêu quàng quạc như phát ra một tràng đạn sung máy….

Năm 1945.

TÔ HOÀNG (chuyển ngữ)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quá trình trưởng thành đầy sóng gió của nhà thơ đoạt giải TS Eliot
Lớn lên ở Jamaica, từng nghĩ bà ngoại là mẹ mình, khi bà đã dạy anh học chữ viết trên hiên nhà với bảng đen. Bây giờ Jason Allen-Paisant dự định bay tới Ethiopia để gặp cha lần đầu tiên.
Xem thêm
Chùm thơ Oleg Ananyev (Cộng hòa Belarus)
Nhà thơ Ananyev Oleg Valentinovich, sinh ngày 12/9/1955, tại thị trấn Mordovo, vùng Tambov (Nga). Sống tại thành phố Gomel (thành phố lớn thứ hai của Belarus) từ năm 1957. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học tổng hợp Francysk Skaryna, Gomel. Oleg Ananyev từng là nhà thiết kế đồ họa, người đề xướng trong Hội Tri thức Belarus, giáo viên văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật thế giới, giám đốc phòng trưng bày nghệ thuật của BSH, phó giám đốc Thư viện khu vực Gomel. Ông là hội viên Hội Nhà văn Belarus, Hội Nghệ sĩ Belarus, Liên đoàn Nhà văn và Nghệ sĩ quốc tế; đồng thời là nhà phê bình nghệ thuật, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, nhà sử học địa phương. Oleg Ananyev là tác giả của một số tập thơ, người khởi xướng và tuyển chọn cuốn sách Исповедь в красках (tạm dịch: “Lời thú nhận trong màu sắc”, gồm 86 chương viết về các nghệ sĩ ở thành phố Gomel), Золотые купола (tạm dịch: Những mái vòm vàng. Viết về các nhà thờ ở Gomel); người khởi xướng và đồng tác giả dự án văn học nghệ thuật của Thư viện khu vực Gomel nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng vĩ đại Живая память моей семьи (tạm dịch: “Ký ức sống động của gia đình tôi”), đồng tác giả của tuyển tập vở kịch Последователи Макаёнка (tạm dịch: “Những người theo dõi Makayonka”). Đạt giải trong hơn 10 cuộc thi văn học ở các hạng mục “thơ” và “văn xuôi” (trong đó có hai lần mang tên Kirill Turovsky – “báo chí”). Ông đã được Bộ Văn hóa Cộng hòa Belarus trao tặng Huy hiệu Danh dự “Vì những đóng góp cho sự phát triển văn hóa Belarus”.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Tetyana Hrytsan-Chonka (Ucraina)
Tetyana Vasylivna Hrytsan-Chonka - là nhà văn, nhà giáo dục người Ukraina. Bà sinh ngày 29 tháng 4 năm 1964 tại làng Vilkhivtsi, hiện đang cư trú tại Zakarpattia, phía tây nam của Ukraina. Bà là hội viên của Liên minh Nhà văn quốc gia Ukraina, thành viên Học viện Văn học, Nghệ thuật và Truyền thông quốc tế Gloria (Đức) và Tổ chức Công cộng Ukraina Kobzar. Tác giả của 12 tập thơ, tiểu thuyết và tiểu luận Những cánh cửa sống, hay tôi là quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là đàn bà.... Là đồng tác giả của 77 tuyển tập và niên giám, cả ấn phẩm của Ukraina và quốc tế, bao gồm Article - Tel Aviv, Soul (tuyển thơ Nhật Bản), Brzegi ognia I Wody (niên lịch Ba Lan), tạp chí văn học nghệ thuật TextOver; tuyển tập thơ quốc tế Lili Marleen (tiếng Hy Lạp); tuyển tập thơ Trung Quốc Thơ thế giới; có mặt trong tuyển tập thơ chống chiến tranh bằng tiếng Anh Những bài thơ cho nhân dân Ukraina; đồng tác giả cuốn sách giáo khoa dành cho học sinh Ukraina lớp 5 & 7 “Văn học hiện đại quê hương”. Là tác giả của tập thơ Azerbaijan-Ukraina Quả táo vàng, cùng những tập thơ khác. Các tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Ba Lan, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, tiếng Anh, tiếng Azerbaijan và các ngôn ngữ khác. Bà là người Ukraina duy nhất tham gia tuyển tập Anatolian Wind IV - International Anthology (xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ). Là người duy nhất tham gia dự án Tạp chí quốc tế “Thần đồng” (Hoa Kỳ) tháng 10 năm 2023 trong chu kỳ “Thức tỉnh. Bà là người giữ kỷ lục, người tham gia tuyển tập quốc tế “HYPERPOEM” với 2000 người tham gia, đã được ghi vào kỷ lục của sách Guinness. Là đồng tác giả văn học thế giới trên báo quốc tế “Quốc gia toàn cầu” (Bangladesh). Các tác phẩm của bà được xuất bản trên các ấn phẩm quốc tế. Bà tham gia vào nhiều diễn đàn quốc tế Các nhà thơ của thế giới vì hòa bình ở Ukraina ở Ý, Đức, Anh, Trung Quốc, Canada, Mỹ, Bangladesh và Đức. Giải thưởng Văn học Hòa bình quốc tế (Đức-Ukraina). Là người đoạt các giải thưởng quốc tế và Ukraina, đồng thời là người chiến thắng trong nhiều cuộc thi, trong đó, đoạt Giải thưởng Văn học và Nghệ thuật quốc tế mang tên Panteleimon Kulish (2020) cho cuốn sách văn xuôi Những cánh cửa sống, hay tôi là một quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là phụ nữ, đoạt giải Franz Kafka quốc tế (Frankfurt-Vienna-Prague), đoạt giải Chiếc lông vàng quốc tế tại Azerbaijan, được trao bằng tốt nghiệp của Cộng đồng Nhân vật Văn học và Nghệ thuật Gloria, và được liệt kê trong bảng xếp hạng năm 2022 Người sáng tạo và Người giám hộ. Bà còn đoạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật quốc tế danh dự mang tên Heinrich Böll (2022); đoạt giải Cuộc thi Văn học Nghệ thuật quốc tế Ernest Hemingway tại Đức năm 2022, đoạt giải “Ngoại giao Văn hóa” quốc tế; được trao tặng danh hiệu Trật tự thế giới “Sao vàng ngoại giao văn hóa” (2023); đoạt Giải Văn học quốc tế mang tên Robert Burns (Scotland-Mỹ, Los Angeles) năm 2023; đoạt Giải Văn học Nghệ thuật mang tên Vasyl Yuhymovych (2023); được tờ báo nổi tiếng thế giới The Daily Global Nation Independent, Dhaka, Bangladesh vinh danh “Đại sứ hòa bình quốc tế” (Đức-Mỹ, 2023); giải “Cây cầu vàng” của Quỹ Văn học quốc tế ở Kyrgyzstan, đoạt giải thưởng quốc tế mang tên Dka de Rishelle ở hạng mục “Sách của năm” cho cuốn sách “Thời đại khác nhau” (Đức-Ukraina, 2023); giải thưởng của Quỹ Rahim Karimov (2023) ); Chủ tịch Quỹ Văn học quốc tế; đoạt Giải thưởng Văn học quốc tế mang tên Theodore Dreiser (Art Marathon, Bồ Đào Nha, 2023) và một số giải thưởng khác.
Xem thêm
Cuộc đời vẫn đẹp
Buổi sáng tôi thường dậy sớm để đi làm. Tôi thích nghe tiếng chim hót nên trên đường hay ngước mắt dõi theo những cánh chim dang rộng bay đi bắt côn trùng. Những chú chim sẻ ấy là các bạn đồng hành, giúp tôi thư giãn trước khi đến quảng trường nơi có thư viện mà tôi làm việc.
Xem thêm
Chùm thơ Trương Chí
Nhà thơ Trương Chí (张智, tên tiếng Anh: Zhang Zhi), sinh năm 1965 tại thị trấn Phượng Hoàng, huyện Đan Ba thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông là nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà xuất bản, dịch giả uy tín của văn học Trung Quốc đương đại. Trương Chí là tiến sĩ văn học. Hiện là chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu và Dịch thuật quốc tế. Tổng biên tập Tạp chí Xuất bản Thơ quốc tế hàng quý (đa ngôn ngữ) và ấn bản tiếng Anh của Niên giám Thơ thế giới, đồng thời là cố vấn cho Trung tâm Toàn cầu hóa Thơ Trung Quốc bằng các ngôn ngữ quốc tế. Từ năm 1986, ông bắt đầu công bố tác phẩm văn học và dịch thuật của mình. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng quốc tế. Trương Chí từng đoạt giải thưởng Văn học của Hy Lạp, Brazil, Mỹ, Israel, Pháp, Ấn Độ, Ý, Áo, Lebanon, Macedonia, Nga, Nhật Bản, Ai Cập, Bỉ, Armenia và Kyrgyzstan. Các tác phẩm chính của ông bao gồm các tuyển tập thơ: Receita (tạm dịch: Mùa thu hoạch - Tiếng Bồ Đào Nha-Anh-Trung), Selected Poems of Diablo (tạm dịch: Những bài thơ chọn lọc của Diablo - Tiếng Anh), Poetry by Zhang Zhi (tạm dịch: Thơ Trương Chí - Tiếng Đức-Anh-Bồ Đào Nha), Những bài thơ chọn lọc của Diablo (tiếng Trung-Anh), A Jigsaw Picture of the World (tạm dịch Bức tranh ghép hình thế giới - Tiếng Albania), Feu Follet On Paper (tạm dịch: Làm yêu tinh trên giấy - Tiếng Ả Rập), Poison (tạm dịch: Chất độc - Tiếng Ả Rập) và The Mirror Image of Ghost City (tạm dịch: Hình phản chiếu của thành phố ma - Tiếng Serbia), Tuyển tập phê bình thơ có tựa đề Loạt bài tiểu luận về các nhà thơ Trung Quốc tiên phong, và bản dịch thơ A & 1 is the Founder (tạm dịch: A & 1 người sáng lập - Tiếng Anh-Trung), Tuyển tập các bài thơ của Tareq Samin (tiếng Anh-Trung), My Secret Lover, You (tạm dịch: Em, người tình bí mật của anh - Tiếng Trung), và dịch tiểu thuyết Назови имя бога của Savitskaya Svetlana Vasilievna, LB Nga (tạm dịch: Xưng danh Thiên Chúa - Tiếng Nga-Trung), v.v. Ngoài ra, ông còn biên tập cuốn sách Thơ chọn lọc của các nhà thơ quốc tế đương đại (tiếng Anh-Trung), Thơ Trung Quốc chọn lọc thế kỷ 20 (tiếng Trung-Anh), Từ điển các nhà thơ quốc tế đương đại (đa ngôn ngữ), Sách giáo khoa Trung-Anh: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2012), và Kinh điển thế kỷ: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2016), v.v.
Xem thêm
Mở vòng tay tình yêu | Chùm thơ Bill Wolak (Mỹ)
Bill Wolak là nhà thơ, nghệ sĩ tranh cắt dán kiêm nhiếp ảnh gia. Ông sinh sống tại New Jersey (Mỹ) và đã xuất bản 18 tập thơ.
Xem thêm
Quyền năng biến đổi của Ruth- truyện ngắn Suchen Christine Lim
Suchen Christine Lim sinh năm 1948 ở Malaysia. Bà lớn lên ở cả hai phía của eo biển ngăn cách Malaysia khỏi Singapore. Bà đến Singapore năm 14 tuổi, học ở Tu viện của trường Holy Infant Jesus, và sau đó là Đại học Quốc gia Singapore. Bà dạy ở một trường cao đẳng và làm chuyên viên thiết kế chương trình giảng dạy ở Bộ Giáo dục. Suchen nghỉ việc vào năm 2003 để dành toàn thời gian cho viết lách.
Xem thêm
Thơ Isaac Cohen (Israel)
Nhà thơ quốc tế, người Israel.
Xem thêm
Luận về thơ của Yi-Soo Byeon (Hàn Quốc)
Thơ là điều gì đó xảy ra ngay khi bạn thức dậy sau giấc ngủ. Giống như việc bạn mở mắt ra, đi trên mặt nước và ném mình vào một thứ gì đó.
Xem thêm
Gió rì rào trò chuyện - chùm thơ Soad Al-Kuwari (Qatar)
Tác giả là Cố vấn Văn hóa tại Bộ Văn hóa Qatar Điều phối viên Phong trào Thơ Quốc tế tại Qatar
Xem thêm
Chùm thơ Khasanboy Kholmirzaevich Gayubov (Cộng hòa Tajikistan)
Gốc cây thuở ấy lắng ngheNơi tôi thường vẫn đi về ngày xưaVà em, chuyện thật như đùaBây giờ chỉ đến trong mơ một lần.
Xem thêm
Du khách kiên định trong vũ trụ thi ca
Đó là cách người ta nói về Rodica Marian – tác giả cuốn thơ “Khoảnh khắc can đảm”.
Xem thêm
Chùm thơ Rida K Liamsi
Nhà thơ Rida K Liamsi sinh ngày 17/7/1943 tại Dabosingkep, thuộc quần đảo Lingga, tỉnh Đảo Riau, Cộng hòa Indonesia. Ông đã xuất bản 6 tập thơ: ODEX (1971), Tempuling (2003), Kelekatu (2007), ROSE (2003), Secangkir Kopi Sekanak (2017) và Sungai Rindu (2020). Thơ của ông được in trong nhiều tuyển tập cùng với các nhà văn, nhà thơ khác. Cuốn sách có tựa ROSE đã nhận được giải thưởng của Viện Ngôn ngữ quốc gia Indonesia năm 2018. Rida cũng là tiểu thuyết gia, đã xuất bản một số cuốn sách: Bulang Cahaya (2007), Megat (2016)...
Xem thêm
Chùm thơ Abdukakhor Kosim (Cộng hòa Tajikistan)
Nhà thơ Abdukakhor Kosim (tên đầy đủ: Abdukakhor Sattorovich Kosimov), sinh ngày 27/1/1965, tại trang trại bang Kuibyshev, thuộc vùng Vakhsh, Cộng hòa Tajikistan, trong một gia đình làm nghề thợ rèn. Ông đồng thời là nhạc sĩ, nhà báo uy tín của Tajikistan.
Xem thêm
Yevgeny Chigrin (LB Nga) - Mai Văn Phấn dịch từ tiếng Nga
Yevgeny Chigrin là một trong những nhà thơ đương đại uy tín của LB Nga
Xem thêm
Chùm thơ của Mahmoud Drwwish, nhà thơ lớn của Palestine
Mahmoud Darwish là một nhà thơ người Palestine và là một trong những nghệ sĩ hàng đầu của thế giới Ả Rậ
Xem thêm
Chùm thơ Rodica Marian (Rumani)
Là một tiến sĩ Ngôn ngữ học, thành viên của Hiệp hội Nhà văn Romania, bà là cộng tác viên khoa học cấp cao của Viện Ngôn ngữ học và Lịch sử Văn học Sextil Pușcariu ở Cluj Napoca.
Xem thêm
Chùm thơ của Yang Geum-Hee’s – Hàn Quốc
Nữ sĩ Yang Geum-Hee sinh năm 1967 tại Jeju, Hàn Quốc
Xem thêm