TIN TỨC

Chúng tôi đi mãi đất nào mộ anh?

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
733 lượt xem

Lê Xuân

Kỷ niệm ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7

 Chiến tranh đã lùi xa hơn một phần tư thế kỷ, nhưng dư âm của nó vẫn còn in  đậm nét trên mỗi khuôn mặt người mẹ, người vợ, người con, những đồng đội có người thân nằm lại các chiến trường. Hài cốt các anh, chị đang ở trên mảnh đất Khe Sanh, đường Chín Nam Lào, rừng già Tây Nguyên hay bưng biền Đồng Tháp? Các anh không về, lòng mẹ lặng im (Phạm Minh Tuấn). Xương máu của các anh đã góp phần tạo nên một Dáng đứng VIệt Nam tạc vào thế kỷ (Lê Anh Xuân). Thơ về đề tài người lính, về anh bộ đội Cụ Hồ, về thương binh liệt sĩ nhiều như sao trên trời, nhưng những vần thơ viết về nghĩa cử cao đẹp đi tìm hài cốt đồng đội, tuy ít nhưng vẫn làm xúc động bao thế hệ hôm nay và mai sau.

Xin dâng lên hương hồn các anh - những chiến sĩ hữu danh và vô danh của đất mẹ yêu dấu, những vần thơ tưởng niệm thành kính. Đó là nén tâm nhang của những thi sĩ chuyên nghiệp và những cây viết nghiệp dư. Hàng ngày ở hậu phương: Bao bà mẹ mắt mòn bên lối cỏ/ Đã bấy nhiêu năm hoá tượng đài (Lê Mạnh Tuấn). Mẹ cứ đợi một ngày nào đó được thấy hình hài của con dù chỉ là một nắm tro tàn để vơi nỗi cô đơn. Nhà thơ Lê Đình Cánh đã gởi vào Gió đất lời thì thầm tới cõi tâm linh, nơi các anh yên nghĩ ở một nghĩa trang trắng trời lau bát ngát:

Người còn tên. Người mất tên…

Giãi dầu mưa gió, nằm bên giãi dầu

Gió sương cỏ dại phai màu

Nắm mồ liệt sĩ, như nhau nấm mồ.

Cảm động biết bao, những người đồng đội còn may mắn sau cuộc chiến, mang trong người mảnh đạn nhưng vẫn cố lặn lội đi tìm hài cốt bạn trong một chiều xuân: Nắng nung/ Đầu đạn còn ở trong lưng/ Vui với mùa xuân/ Chúng tôi đi tìm hài cốt đồng đội (Tìm đồng đội – Sơn Thu). Những câu thơ như một lời quyết tâm hứa với người đã khuất. Người nằm dưới đất sâu đã cảm được Lời thiêng: Thương bạn ngược xuôi/ Đi tìm đồng đội/ Tôi hoá đất rồi/ Cỏ đã xanh chưa? Tôi hoá đá dưới chân Tô Thị/ Tận bến Kỳ Cùng/ Bạn nhớ đến thăm (Trần Ngọc Tuấn). Các anh nằm ở đâu? Chúng tôi đang vượt Trường Sơn trong cảnh sáng nắng, chiều mưa để tìm các anh đây. Nỗi nhớ, nỗi khát khao hiện lên cả ở trong giấc mơ:

Trường Sơn năm đợi tháng trông

Ngày tìm đồng đội đêm nồng chiêm bao

Núi cao, thác lũ, mưa trào

 Chúng tôi đi mãi, đất nào mộ anh?

(Đồng đội – Đinh Ngọc Du).

Nhà thơ Quang Chuyền trong lời Ru đồng đội đã hỏi trời, hỏi đất, hỏi núi, hỏi sông: Nơi nào cất giấu hình anh? Nơi nào giấu cuộc chiến tranh thuở nào? Nơi nào mưa thấp mây cao? Nơi nào tên tuổi chìm vào đất đai? Những câu hỏi như xoáy vào lòng người đang bước thấp bước cao ngày đêm đi tìm đồng đội, nhắc nhở chúng ta hãy nghĩ về các anh, về trách nhiệm của những người còn sống đối với những chiến sĩ vô danh ấy. Nghiêm Thị Hằng lại hoá thân vào vai một người em đi tìm mộ anh theo lời trăng trối của cha mẹ trước lúc ra đi:

Trong ngàn nấm mộ vô danh

Em đi tìm viếng mộ anh, em tìm

Khấn trời lạy đất linh thiêng

Chỉ cho em một cõi riêng anh nằm.

Thời gian trôi đi tưởng có thể làm vơi phần nào nỗi đau mất mát, nhưng thời gian cũng làm tăng thêm niềm day dứt khôn nguôi khi những người thân chưa tìm được hài cốt các anh. Thời gian tâm lý của những người đi tìm mộ như muốn kéo thời gian của tạo hoá chậm lại:

Níu thời gian gỡ nỗi đau

Đi tìm đồng đội rừng sâu gửi mình.

(Tìm đồng đội – Phạm Thông)

Nhà thơ Tô Hoàn với bài Tôi gọi rừng già đã hỏi mây, hỏi chim, hỏi rừng… về bạn mình ở đâu và cũng chỉ nhận ở cõi hư vô một lời thinh không với lòng mình: Thế mà đã mấy mươi năm/ Ánh cây bóng cỏ bạn nằm giờ đâu?/ Rừng hoang rờn rợn một màu/ Cây nằm cây đứng đan nhau rối bời/ Hỏi chim – chim lặn vào trời/ Hỏi mây – mây xoã tóc trôi trắng ngàn. Những câu hỏi vang lên và tan biến vào rừng xanh hoang vắng. Một không gian rợn ngợp, một con người cô đơn, ngơ ngác giữa rừng sâu.

Trong cuộc thi thơ lục bát của báo Giáo dục – Thời đại (1996 - 1998) có bài thơ đạt giải Nhì của Đinh Phạm Thái: Cái roi ngày ấy đã dựng lại nỗi đau của một người mẹ có đứa con duy nhất hay nghịch ngợm có lần đã bị đánh đòn. Anh đi bộ đội và nằm lại Trường Sơn. Người mẹ mỗi lần chạm tới cái roi là như đụng tới một nỗi đau sâu lắng:

Bây giờ con ở đâu xa

Nắm xương không cửa, không nhà mãi đi

Trường sơn một dải xanh rì

Đất đen, đất đỏ đất gì chôn con?

Chân run quờ chiếc gậy mòn

Sợ cầm phải cái roi còn đâu đây.

Kỷ niệm xưa như một nhát cắt ứa máu trong trái tim mẹ. Trong cuộc tìm kiếm đồng đội này, cũng có những người may mắn tìm được nắm xương của bạn mình. Cả làng xóm lại nâng niu đón hài cốt anh, cũng như trước đây đã tiễn anh ra đi. Về với quê nhà, người người rơi lệ, mừng mừng tủi tủi. Làng đón bạn về bạn ạ, như ngày làng tiễn ta đi/ Chỉ khác xưa những bàn tay vẫy/ Nay nâng niu hài cốt bạn về…/ Cờ đỏ quá trong tay người lặng lẽ/ Vải màu cờ ôm giấc bạn ngàn năm (Bạn về - Vũ Toàn). Có một người mẹ Nam Bộ ngoài bảy mươi tuổi bên bờ sông Tiền, đã từng khóc chồng, khóc con hết nước mắt, nay nhận được hài cốt của thằng Út do đồng đội đem về:Mẹ nhận về hài cốt đứa con trai/ Một nắm xương không còn nguyên vẹn/ Ngày anh đi tuổi vừa tròn mười tám/ Mũ tai bèo vành vạnh vầng trăng. Mẹ run run, thoáng một chút ngỡ ngàng khi thấy mười ngón tay. Mẹ sững sờ nhớ lại thằng Út con mẹ mất một ngón tay cái khi chặt dừa cơ mà? Mẹ lặng im và cao đẹp biết bao, đã tự nhận hài cốt vô danh ấy như chính thằng Út của mình: Tôi sững lặng trước trái tim người mẹ/ Thằng Út nào cũng máu thịt sinh ra (Trái tim người mẹ -Võ Thị Kim Liên). Trong ngàn ngàn ngôi mộ không tên ở Quảng Trị, Trường Sơn, Tây Ninh, Đồng Tháp… ngày ngày ta vẫn thấy có những người mẹ, người vợ, người em cứ lần từng tấm bia, may ra tìm thấy tên người thân trong đó. Hy vọng thật mong manh, và một người em đã thốt lên:

Em đi tìm/ Không thấy tên anh trong danh sách nối dài/ Không thấy mồ anh trong nghĩa trang cỏ ấy/ Đất như gọi bước chân em trở lại/ Bên cánh đồng lá lúa- mũi kim (Tìm Anh – Vũ Toàn). Còn như Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc thì vẫn y nguyên nằm đó với tên tuổi đàng hoàng trên mộ chí:

Mười ngôi mộ chẳng biết già

Bởi xây bằng tiếng chim ca bên trờ

(Đồng Đức Bốn).

Biết bao cô gái khác chỉ để lại một khoảng trời con gái không tên: Em nằm dưới đất sâu/ Như khoảng trời đã nằm yên trong lòng đất/ Đêm đêm tâm hồn em toả sáng/ Những vì sao ngời chói, lung linh (Khoảng trời, hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ). Trong một chiều hành quân sau chiến tranh biên giới phía Bắc - 1979, những người lính bắt gặp những nấm mộ vô danh bên đường, họ như được tiếp thêm nghị lực trước giờ xuất kích: Các em đi khi mười tám tuổi xuân/ Và để lại những trái tim trong trắng/ Tiếng các em thét gọi nhau trong chiến hào khói lửa/ Còn cháy lòng bao chiến sĩ xung phong. (Gặp lại các em - Nguyễn ĐÌnh Chiến). Các anh, các chị, các em hãy tha lỗi cho chúng tôi vì việc tìm kiếm quá muộn. Biết bao ngôi mộ không tên, anh nằm trong đó và: Sau hy sinh, anh hy sinh lần nữa (Nhật Linh). Một dáng mẹ già đi ngược chiều gió vào nghĩa trang, trước những tấm bia vô danh, mẹ vẫn tâm niệm và tưởng tượng ra: Con mang tên chung của bao anh em/ Gương mặt con tươi nụ cười đồng đội (Bên mộ liệt sĩ vô danh - Nguyễn Đức Hạnh). Những người mẹ ấy Là trầm hương, thắp sáng mộ anh (Lê Huy Hạnh).

Có những người yêu, chỉ một lần tiễn anh lên đường ra hoả tuyến, để rồi biền biệt chờ mong và trở thành Tô Thị. Có những người vợ chỉ gần chồng trong gang tấc rồi âm thầm nuôi con một mình khi người anh nằm lại ở chiến trường. Căn nhà của chị trở nên trống trải, chị thương con: Chỉ nhớ gương mặt mẹ, còn cha thật xa vời. Biết bao dãi rừng bạt ngàn với sỏi đá, cỏ cây phủ lên các anh, ôm ấp chở che anh trong lòng đất mẹ:

Phủ lên ngôi mộ hao gầy

Một xanh thoáng mát, một ngày sắc quê

Cho hồn bạn níu trở về

Bớt đi một chút vụng về miền Trung

(Cỏ - Lê Thanh Xuân)

Đêm đêm có những người vợ vẫn tâm tình kể chuyện quê nhà cho người chồng ở chốn xa xôi dưới lòng đất nghe: Quê nhà mấy trận bão giông/ Mãi lo nước ngập trắng đồng lúa xanh/ Mãi lo cơm đủ áo lành/ Còn đâu lúc rãnh để thành Vọng Phu  (Lê Đình Cánh). Nỗi đau tưởng đã hoá đá, con người tưởng như bị bi kịch nhấn chìm. Nhưng không, đẹp biết bao hình ảnh người phụ nữ Việt Nam vẫn nén nỗi đau để lo việc nhà, việc nước thay anh. Chất lạc quan vút cao từ niềm tin ở cuộc đời mới, niềm vui độc lập tự do của dân tộc, niềm tự hào vì đã có chồng con góp xương máu để làm nên một Việt Nam  bát ngát mùa xuân.

Các anh đã trở nên bất tử cùng núi sông đất nước, đã hoà vào cỏ cây hoa lá để muôn đời con cháu tươi xanh. Các anh đã viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của dân tộc, vang dội bước quân hành của một thời chống Pháp, chống Mỹ hào hùng. Hồn thiêng các anh thúc giục chúng ta- những người đang sống, hãy nghĩ về các anh, hãy tìm kiếm các anh để làm vơi đi phần nào nỗi đau của những người thân trong cuộc sống hôm nay.

L.X

Bài viết liên quan

Xem thêm
Có một người thương binh như thế
Về Trung tướng nhà văn Nguyễn Mạnh Đẩu
Xem thêm
Chữa lành và những ngôi sao thức – Bút ký Thanh Huyền
… Đêm đã về khuya, gió biển vẫn mải mê hợp xướng với dàn đồng ca đại dương. Tôi vẫn tản bộ trên dải cát cùng với những nghĩ suy, chất vấn. Tôi không biết mình đang chữa lành ở dạng thể nào nhưng mong rằng khoảng trống nơi tim được lấp đầy... và chắc chắn tôi cũng là một trong những ngôi sao thức!
Xem thêm
Hoàng hôn trên đảo vắng – Tạp bút của Thúy Dung
“Hoàng hôn” là lúc mặt trời lặn, kết thúc một ngày gieo ánh sáng. Ai từng nghe bài “Đà Lạt hoàng hôn” của Minh Kỳ – Dạ Cầm, hẳn còn nhớ câu “Lắng nghe chiều xuống thành phố mộng mơ, màu lam tím, Đà Lạt sương phủ mờ”.
Xem thêm
Hồn sông, hồn quê trong thơ trong nhạc
Nguồn: Hồn sông, hồn quê trong thơ trong nhạc (Tạp chí Sông Lam) và Văn nghệ Công an số 715, ngày 11/7/2024.
Xem thêm
Những cống hiến, hy sinh của người lính đánh đổi để có hoà bình, phát triển kinh tế đất nước
Nguyện xứng đáng với lòng tin yêu của Đảng, nhân dân. Nâng cao cảnh giác, chủ động sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù, bảo vệ vững chắc môi trường hoà bình; đóng góp sức mình cùng cả nước giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh…
Xem thêm
Nợ sách đèn
Ngày ấy, chúng tôi từ khi đầu tiên mới tập tễnh cặp sách vào lớp 1 bậc tiểu học đến khi tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học, thế hệ học trò chúng tôi trải qua khá nhiều kỳ thi qui định. Học trò có thi đỗ mới được lên lớp.
Xem thêm
Thương một nhà văn cao tuổi
Nghe tin một nhà văn cao tuổi (85 tuổi) là Hội viên Hội Nhà văn TPHCM, cũng là người tôi quý mến bị bệnh ung thư và khó qua khỏi trong thời gian tới. Tôi lật đật chạy đến thăm ông dưới cái nắng hè oi bức.
Xem thêm
Chất lính - Bút ký của Lê Thanh Huệ
Nguồn: Báo Văn nghệ - Hội Nhà Văn Việt Nam số 3262 – 3263.
Xem thêm
Beijing lá phong vàng (8) – Tùy văn Nguyễn Linh Khiếu
Kẻ yếu thua từng trận nhưng thắng toàn cuộc. Kẻ mạnh thắng từng trận nhưng thua toàn cuộc. Chủ thuyết Tàu là Salami.
Xem thêm
Cha tôi: Một ngón đàn tài tử đậm hồn thơ – Tạp bút Tương Như
Trong suốt cuộc đời, đôi khi phải chịu đựng cảnh mưa gió chìm nổi, tôi vẫn thường tự nghĩ mình là có lẽ là nơi hội tụ cơ duyên giữa ba dòng sông nghệ thuật: mỹ thuật, thi ca và âm nhạc.
Xem thêm
Duyên đá - Bút ký của Minh Đan
Mỗi ngày, mặt trời phía xa xa chưa kịp lấp ló, đã thấy ba tôi cần mẫn xách những xô nước mát trong trĩu nặng đôi bờ vai xương xẩu tưới lên những tia sống khỏe, mớm yêu cho từng khóm cây, chậu cảnh vườn nhà.
Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm