TIN TỨC

Chúng tôi đi mãi đất nào mộ anh?

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
514 lượt xem

Lê Xuân

Kỷ niệm ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7

 Chiến tranh đã lùi xa hơn một phần tư thế kỷ, nhưng dư âm của nó vẫn còn in  đậm nét trên mỗi khuôn mặt người mẹ, người vợ, người con, những đồng đội có người thân nằm lại các chiến trường. Hài cốt các anh, chị đang ở trên mảnh đất Khe Sanh, đường Chín Nam Lào, rừng già Tây Nguyên hay bưng biền Đồng Tháp? Các anh không về, lòng mẹ lặng im (Phạm Minh Tuấn). Xương máu của các anh đã góp phần tạo nên một Dáng đứng VIệt Nam tạc vào thế kỷ (Lê Anh Xuân). Thơ về đề tài người lính, về anh bộ đội Cụ Hồ, về thương binh liệt sĩ nhiều như sao trên trời, nhưng những vần thơ viết về nghĩa cử cao đẹp đi tìm hài cốt đồng đội, tuy ít nhưng vẫn làm xúc động bao thế hệ hôm nay và mai sau.

Xin dâng lên hương hồn các anh - những chiến sĩ hữu danh và vô danh của đất mẹ yêu dấu, những vần thơ tưởng niệm thành kính. Đó là nén tâm nhang của những thi sĩ chuyên nghiệp và những cây viết nghiệp dư. Hàng ngày ở hậu phương: Bao bà mẹ mắt mòn bên lối cỏ/ Đã bấy nhiêu năm hoá tượng đài (Lê Mạnh Tuấn). Mẹ cứ đợi một ngày nào đó được thấy hình hài của con dù chỉ là một nắm tro tàn để vơi nỗi cô đơn. Nhà thơ Lê Đình Cánh đã gởi vào Gió đất lời thì thầm tới cõi tâm linh, nơi các anh yên nghĩ ở một nghĩa trang trắng trời lau bát ngát:

Người còn tên. Người mất tên…

Giãi dầu mưa gió, nằm bên giãi dầu

Gió sương cỏ dại phai màu

Nắm mồ liệt sĩ, như nhau nấm mồ.

Cảm động biết bao, những người đồng đội còn may mắn sau cuộc chiến, mang trong người mảnh đạn nhưng vẫn cố lặn lội đi tìm hài cốt bạn trong một chiều xuân: Nắng nung/ Đầu đạn còn ở trong lưng/ Vui với mùa xuân/ Chúng tôi đi tìm hài cốt đồng đội (Tìm đồng đội – Sơn Thu). Những câu thơ như một lời quyết tâm hứa với người đã khuất. Người nằm dưới đất sâu đã cảm được Lời thiêng: Thương bạn ngược xuôi/ Đi tìm đồng đội/ Tôi hoá đất rồi/ Cỏ đã xanh chưa? Tôi hoá đá dưới chân Tô Thị/ Tận bến Kỳ Cùng/ Bạn nhớ đến thăm (Trần Ngọc Tuấn). Các anh nằm ở đâu? Chúng tôi đang vượt Trường Sơn trong cảnh sáng nắng, chiều mưa để tìm các anh đây. Nỗi nhớ, nỗi khát khao hiện lên cả ở trong giấc mơ:

Trường Sơn năm đợi tháng trông

Ngày tìm đồng đội đêm nồng chiêm bao

Núi cao, thác lũ, mưa trào

 Chúng tôi đi mãi, đất nào mộ anh?

(Đồng đội – Đinh Ngọc Du).

Nhà thơ Quang Chuyền trong lời Ru đồng đội đã hỏi trời, hỏi đất, hỏi núi, hỏi sông: Nơi nào cất giấu hình anh? Nơi nào giấu cuộc chiến tranh thuở nào? Nơi nào mưa thấp mây cao? Nơi nào tên tuổi chìm vào đất đai? Những câu hỏi như xoáy vào lòng người đang bước thấp bước cao ngày đêm đi tìm đồng đội, nhắc nhở chúng ta hãy nghĩ về các anh, về trách nhiệm của những người còn sống đối với những chiến sĩ vô danh ấy. Nghiêm Thị Hằng lại hoá thân vào vai một người em đi tìm mộ anh theo lời trăng trối của cha mẹ trước lúc ra đi:

Trong ngàn nấm mộ vô danh

Em đi tìm viếng mộ anh, em tìm

Khấn trời lạy đất linh thiêng

Chỉ cho em một cõi riêng anh nằm.

Thời gian trôi đi tưởng có thể làm vơi phần nào nỗi đau mất mát, nhưng thời gian cũng làm tăng thêm niềm day dứt khôn nguôi khi những người thân chưa tìm được hài cốt các anh. Thời gian tâm lý của những người đi tìm mộ như muốn kéo thời gian của tạo hoá chậm lại:

Níu thời gian gỡ nỗi đau

Đi tìm đồng đội rừng sâu gửi mình.

(Tìm đồng đội – Phạm Thông)

Nhà thơ Tô Hoàn với bài Tôi gọi rừng già đã hỏi mây, hỏi chim, hỏi rừng… về bạn mình ở đâu và cũng chỉ nhận ở cõi hư vô một lời thinh không với lòng mình: Thế mà đã mấy mươi năm/ Ánh cây bóng cỏ bạn nằm giờ đâu?/ Rừng hoang rờn rợn một màu/ Cây nằm cây đứng đan nhau rối bời/ Hỏi chim – chim lặn vào trời/ Hỏi mây – mây xoã tóc trôi trắng ngàn. Những câu hỏi vang lên và tan biến vào rừng xanh hoang vắng. Một không gian rợn ngợp, một con người cô đơn, ngơ ngác giữa rừng sâu.

Trong cuộc thi thơ lục bát của báo Giáo dục – Thời đại (1996 - 1998) có bài thơ đạt giải Nhì của Đinh Phạm Thái: Cái roi ngày ấy đã dựng lại nỗi đau của một người mẹ có đứa con duy nhất hay nghịch ngợm có lần đã bị đánh đòn. Anh đi bộ đội và nằm lại Trường Sơn. Người mẹ mỗi lần chạm tới cái roi là như đụng tới một nỗi đau sâu lắng:

Bây giờ con ở đâu xa

Nắm xương không cửa, không nhà mãi đi

Trường sơn một dải xanh rì

Đất đen, đất đỏ đất gì chôn con?

Chân run quờ chiếc gậy mòn

Sợ cầm phải cái roi còn đâu đây.

Kỷ niệm xưa như một nhát cắt ứa máu trong trái tim mẹ. Trong cuộc tìm kiếm đồng đội này, cũng có những người may mắn tìm được nắm xương của bạn mình. Cả làng xóm lại nâng niu đón hài cốt anh, cũng như trước đây đã tiễn anh ra đi. Về với quê nhà, người người rơi lệ, mừng mừng tủi tủi. Làng đón bạn về bạn ạ, như ngày làng tiễn ta đi/ Chỉ khác xưa những bàn tay vẫy/ Nay nâng niu hài cốt bạn về…/ Cờ đỏ quá trong tay người lặng lẽ/ Vải màu cờ ôm giấc bạn ngàn năm (Bạn về - Vũ Toàn). Có một người mẹ Nam Bộ ngoài bảy mươi tuổi bên bờ sông Tiền, đã từng khóc chồng, khóc con hết nước mắt, nay nhận được hài cốt của thằng Út do đồng đội đem về:Mẹ nhận về hài cốt đứa con trai/ Một nắm xương không còn nguyên vẹn/ Ngày anh đi tuổi vừa tròn mười tám/ Mũ tai bèo vành vạnh vầng trăng. Mẹ run run, thoáng một chút ngỡ ngàng khi thấy mười ngón tay. Mẹ sững sờ nhớ lại thằng Út con mẹ mất một ngón tay cái khi chặt dừa cơ mà? Mẹ lặng im và cao đẹp biết bao, đã tự nhận hài cốt vô danh ấy như chính thằng Út của mình: Tôi sững lặng trước trái tim người mẹ/ Thằng Út nào cũng máu thịt sinh ra (Trái tim người mẹ -Võ Thị Kim Liên). Trong ngàn ngàn ngôi mộ không tên ở Quảng Trị, Trường Sơn, Tây Ninh, Đồng Tháp… ngày ngày ta vẫn thấy có những người mẹ, người vợ, người em cứ lần từng tấm bia, may ra tìm thấy tên người thân trong đó. Hy vọng thật mong manh, và một người em đã thốt lên:

Em đi tìm/ Không thấy tên anh trong danh sách nối dài/ Không thấy mồ anh trong nghĩa trang cỏ ấy/ Đất như gọi bước chân em trở lại/ Bên cánh đồng lá lúa- mũi kim (Tìm Anh – Vũ Toàn). Còn như Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc thì vẫn y nguyên nằm đó với tên tuổi đàng hoàng trên mộ chí:

Mười ngôi mộ chẳng biết già

Bởi xây bằng tiếng chim ca bên trờ

(Đồng Đức Bốn).

Biết bao cô gái khác chỉ để lại một khoảng trời con gái không tên: Em nằm dưới đất sâu/ Như khoảng trời đã nằm yên trong lòng đất/ Đêm đêm tâm hồn em toả sáng/ Những vì sao ngời chói, lung linh (Khoảng trời, hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ). Trong một chiều hành quân sau chiến tranh biên giới phía Bắc - 1979, những người lính bắt gặp những nấm mộ vô danh bên đường, họ như được tiếp thêm nghị lực trước giờ xuất kích: Các em đi khi mười tám tuổi xuân/ Và để lại những trái tim trong trắng/ Tiếng các em thét gọi nhau trong chiến hào khói lửa/ Còn cháy lòng bao chiến sĩ xung phong. (Gặp lại các em - Nguyễn ĐÌnh Chiến). Các anh, các chị, các em hãy tha lỗi cho chúng tôi vì việc tìm kiếm quá muộn. Biết bao ngôi mộ không tên, anh nằm trong đó và: Sau hy sinh, anh hy sinh lần nữa (Nhật Linh). Một dáng mẹ già đi ngược chiều gió vào nghĩa trang, trước những tấm bia vô danh, mẹ vẫn tâm niệm và tưởng tượng ra: Con mang tên chung của bao anh em/ Gương mặt con tươi nụ cười đồng đội (Bên mộ liệt sĩ vô danh - Nguyễn Đức Hạnh). Những người mẹ ấy Là trầm hương, thắp sáng mộ anh (Lê Huy Hạnh).

Có những người yêu, chỉ một lần tiễn anh lên đường ra hoả tuyến, để rồi biền biệt chờ mong và trở thành Tô Thị. Có những người vợ chỉ gần chồng trong gang tấc rồi âm thầm nuôi con một mình khi người anh nằm lại ở chiến trường. Căn nhà của chị trở nên trống trải, chị thương con: Chỉ nhớ gương mặt mẹ, còn cha thật xa vời. Biết bao dãi rừng bạt ngàn với sỏi đá, cỏ cây phủ lên các anh, ôm ấp chở che anh trong lòng đất mẹ:

Phủ lên ngôi mộ hao gầy

Một xanh thoáng mát, một ngày sắc quê

Cho hồn bạn níu trở về

Bớt đi một chút vụng về miền Trung

(Cỏ - Lê Thanh Xuân)

Đêm đêm có những người vợ vẫn tâm tình kể chuyện quê nhà cho người chồng ở chốn xa xôi dưới lòng đất nghe: Quê nhà mấy trận bão giông/ Mãi lo nước ngập trắng đồng lúa xanh/ Mãi lo cơm đủ áo lành/ Còn đâu lúc rãnh để thành Vọng Phu  (Lê Đình Cánh). Nỗi đau tưởng đã hoá đá, con người tưởng như bị bi kịch nhấn chìm. Nhưng không, đẹp biết bao hình ảnh người phụ nữ Việt Nam vẫn nén nỗi đau để lo việc nhà, việc nước thay anh. Chất lạc quan vút cao từ niềm tin ở cuộc đời mới, niềm vui độc lập tự do của dân tộc, niềm tự hào vì đã có chồng con góp xương máu để làm nên một Việt Nam  bát ngát mùa xuân.

Các anh đã trở nên bất tử cùng núi sông đất nước, đã hoà vào cỏ cây hoa lá để muôn đời con cháu tươi xanh. Các anh đã viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của dân tộc, vang dội bước quân hành của một thời chống Pháp, chống Mỹ hào hùng. Hồn thiêng các anh thúc giục chúng ta- những người đang sống, hãy nghĩ về các anh, hãy tìm kiếm các anh để làm vơi đi phần nào nỗi đau của những người thân trong cuộc sống hôm nay.

L.X

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi lòng Huyền Trân - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Trên đường thiên lý Bắc- Nam, đoạn Quốc lộ 1 giao nhau với Quốc lộ 9 đi về hướng Cửa Việt (tỉnh Quảng Trị), có một bảng chỉ dẫn: “Miếu thờ bà Huyền Trân Công Chúa 500 mét”.
Xem thêm
Thầy tôi - Kho báu của tôi
PGS Chu Xuân Diên thuộc thế hệ những nhà nghiên cứu tiếp thu lý thuyết thế giới qua con đường tiếng Nga và tiếng Pháp. Thầy đã tham gia dịch những công trình kinh điển về folklore học mà đặc biệt phải kể đến bộ sách 2 tập rất dày dặn là Tuyển tập V. Ia. Propp - giới thiệu gần như đầy đủ trước tác của một tác giả quan trọng hàng đầu của trường phái Hình thức Nga và nghiên cứu folklore
Xem thêm
“Cú hattrick” của nhà thơ Triệu Kim Loan
Nhà thơ Triệu Kim Loan sẽ ra mắt độc giả ba quyển sách (hai tập thơ: Khát vọng xanh, Đối thoại đêm và quyển Cảm nhận văn chương)
Xem thêm
Đất có thổ công - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Nhà văn Nguyễn Linh Giang quê quán tỉnh Quảng Trị, sinh sống và làm việc 30 năm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn TP.Hồ Chí Minh năm 2022. Nguyễn Linh Giang vừa xuất bản tập tản văn: “Sông vẫn chảy đời sông” (NXB Thanh niên, 2023). Về tập tản văn này, nhà văn Lê Minh Quốc trong “Tựa” viết cho tập sách đã viết: “Dám nói rằng, con người và vùng đất của mỗi địa phương đều đóng góp cho bộ sử của cả nước đầy đặn hơn, phong phú hơn. Mỗi khi chúng ta nói đến lịch sử một dân tộc là cần hiểu rộng hơn bao gồm cả yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán, ẩm thực, v.v… của nhiều vùng đất khác gộp lại. Vì lẽ đó, những quyển sách về đề tài này, bao giờ cũng cần thiết, Nếu khi đọc xong, bạn đọc gật gù, tâm đắc: “À, ước chi có dịp đến nơi ấy một lần nhỉ?”. Được thế. Nhà văn đã thành công. “Sông vẫn chảy đời sông” của Nguyễn Linh Giang là một trong những tập tản văn như thế”.Văn chương TP.Hồ Chí Minh xin giới thiệu tản văn Đất có thổ công được rút từ tập “Sông vẫn chảy đời sông” của nhà văn Nguyễn Linh Giang.
Xem thêm
Em đi tát nước… Tản văn của Nguyễn Linh Giang
Tôi lớn lên, vào những năm sau 1975, ruộng đồng vào mùa khô vẫn phải chống hạn bằng xe đạp nước. Có lần, được ngồi xe đạp nước đêm trăng cùng với cô bạn gái tôi mới biết giọt mồ hôi trên sợi tóc mai cùa cô thôn nữ vừa nghe mằn mặn vừa nồng ngầy ngậy, khó tả. Qua bao mùa trăng, tôi vẫn còn mơ được đi tát nước: “Hôm qua trăng sáng tờ mờ/ Em đi tát nước tình cờ gặp anh” (Ca dao).
Xem thêm
Dọc thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông – Ký của Thanh Thảo
Năm 1973, khi tôi từ chiến trường Nam Lộ Bốn (Mỹ Tho) trở về lại cơ quan binh vận ở R, tôi rất phấn khởi vì cơ quan tôi đã dời về đất Tây Ninh, đóng căn cứ ở Bến Tháp ngay sát sông Vàm Cỏ Đông. Đoạn sông này là biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Campuchia, cũng là thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông. Từ Mỹ Tho, trước khi băng qua đồng Tháp Mười lên chiến khu, chúng tôi đã vượt qua sông Vàm Cỏ Tây, bây giờ lại được ở sát sông Vàm Cỏ Đông, thật thú vị.
Xem thêm
Đỗ Nam Cao - Cô đơn và khắc khoải 
Những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng tôi cùng sống và chiến đấu trên chiến trường Miền Đông gian lao mà anh dũng. Nhà thơ Đỗ Nam Cao công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, còn tôi là lính chiến thuộc Công trường 5 (Sư đoàn 5). Rừng Miền Đông bạt ngàn, bom đạn tàn phá, chất độc hóa học trắng rừng, nhưng chúng tôi thường xuyên gặp nhau qua Đài Phát thanh Giải phóng và chương trình Phát thanh Quân Giải phóng miền Nam. Đôi khi, hành quân giữa khuya, nghe đọc bài hoặc ngâm thơ Đỗ Nam Cao trong chương trình văn nghệ, tiếp sức cho cánh lính trẻ chúng tôi xông lên phía trước.
Xem thêm
Nhà thơ Thanh Thảo… Nghĩ
Bây giờ, khi đã ngấp nghé tuổi tám mươi, tôi mới nhận ra, khi mình càng về già thì thời gian trôi càng nhanh. Và thời gian là thứ mình không thể khắc chế được. Việc hôm nay chớ để ngày mai mới làm, vì có khi không kịp.
Xem thêm
Nghệ sĩ Bảo Anh đang trên đường trở về quê nhà
“Một đám rước”, dường như có những tương đồng với “đám rước” khi thân xác nghệ sĩ Bảo Anh được trở về quê nhà, về U Minh, Cà Mau, nơi chôn nhau cắt rốn của anh.
Xem thêm
Vũ Quần Phương tiết lộ chuyện đặc biệt về Xuân Diệu, Chế Lan Viên
Nhà thơ Vũ Quần Phương nhớ lại ký ức về những nhà thơ, nhà văn lão thành như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Tuân… thế hệ đàn anh – những người đã “lót ổ” cho thế hệ hôm nay dưới mái nhà văn chương.
Xem thêm
Nhà văn Ma Văn Kháng: Sống rồi mới viết
Trong lớp nhà văn cao tuổi hiện nay, có một người tôi luôn chờ đợi đọc những sáng tác mới của ông. Đó là nhà văn Ma Văn Kháng (sinh năm 1936, tên thật Đinh Trọng Đoàn). Chỉ có điều thời gian gần đây tuổi cao đã khiến ông không viết đều, viết nhiều như trước. Thế nhưng, thi thoảng vẫn được đọc những truyện ngắn mới của ông, hay những bài báo gửi gắm trăn trở, suy tư.
Xem thêm
Cuộc chiến nhân tính – Tiểu luận của Hoàng Thuỵ Anh
Nhà văn Hữu Phương là một trong số những cây bút văn xuôi kỳ cựu của miền Trung, đã khẳng định sở trường, sự điêu luyện khi nhìn sâu và cắt nghĩa tính tàn bạo của chiến tranh thông qua những số phận bị chấn thương, bi kịch.
Xem thêm
Nhớ mãi kỷ niệm với nhà văn Nguyễn Quốc Trung
Qua các nguồn tin, được biết Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và Tạp chí Văn nghệ Quân đội chuẩn bị phối hợp tổ chức hoạt động tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung sau 2 năm anh rời “cõi tạm” và nhân sự kiện anh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước với tiểu thuyết Đất không đổi màu, tôi cảm thấy vui mừng xen lẫn sự bồi hồi, xao xuyến.
Xem thêm
Tàn thu vắng bóng - Tản văn của Đặng Tường Vy
 Châu Âu thật tuyệt với bốn mùa rõ rệt. Mùa nào cũng có nét quyến rũ riêng, làm người tha hương vơi đi nỗi buồn dịu vợi. ..
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Quốc Trung
Nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội nhà văn TP HCM gọi điện thông báo với tôi về việc Hội nhà văn TP HCM phối hợp cùng Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung nhân hai năm ông rời cõi tạm và đặc biệt nhà văn được truy tặng giải thưởng Nhà nước về tiểu thuyết Đất không đổi màu.
Xem thêm
Mùa thu đây hỡi cờ hồng vàng sao – Tản văn của Lê Xuân
Tháng Tám cũng là tháng giữa thu, tháng để các em thiếu niên, nhi đồng phá cỗ trông Trăng, mừng Tết Trung thu, rước đèn, múa lân dưới trăng thanh, gió mát…
Xem thêm
Cửa bể Cần Giờ | Bút ký của Nguyễn Minh Ngọc
Bài đăng Báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn VN) số 35+36, ra ngày 2-9-2023
Xem thêm
Tản Mạn Vàm Cỏ Đông - Tùy bút Trần Thế Tuyển 
Có lẽ trên trái đất này, không ở đâu cái giá để có độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc lại đắt như ở Việt Nam. Để có hình hài đất nước, vị thế quốc gia như ngày hôm nay đã có hàng triệu triệu người con ưu tú ngã xuống. Máu xương của họ tan biến thành đất đai tổ quốc và hồn của họ bay lên hóa linh khí quốc gia.
Xem thêm