TIN TỨC

Nhà văn Sơn Tùng: “Ðạo là gốc của văn”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-08-27 07:45:41
mail facebook google pos stwis
3422 lượt xem

THIÊN SƠN

Nhà văn Xuân Cang thuở sinh thời có nói về nhà văn Sơn Tùng: “một đời trận mạc không biết lui quân”. Cuộc đời ông là cuộc đời vượt qua muôn vàn nghiệt ngã và cả sự ra đi của ông lúc này cũng vào chính cái lúc ngặt nghèo khiến biết bao đồng nghiệp, những bạn đọc yêu mến nhỏ lệ mà khó lòng đến để tiễn biệt ông được. Đấy phải chăng là một nghịch lý của số phận? Hay sự đau khổ, sự cô đơn mới chính là một thử thách mà tạo hóa muốn ban tặng để rèn giũa, để thử thách những tâm hồn lớn, để hun đúc lên ánh sáng nhân văn trong trang viết của một đời người?!

Trong im lặng mênh mông của đêm đen, tôi ngồi nghĩ về ông. Hình ảnh ông từ trong ký ức hiện về với dáng người tầm thước, đôi mắt hiền từ sau làn kính trắng, mái tóc trắng dài phủ kín tai, vầng trán rộng bừng sáng cả khuôn mặt, giọng nói trầm vang đầy truyền cảm. Mới đó thôi mà đã thành xa thăm thẳm…

Nhà văn Sơn Tùng sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học và cách mạng. Cha ông là một trong những người sáng lập chi bộ đảng cộng sản ở quê nhà. Từ thuở trong nôi và suốt những năm thơ ấu ông đã cùng với gia đình trải qua những ngày tháng khó khăn khi bị giặc Pháp truy lùng trong và sau cao trào cách mạng 1930-1931. Mới 11 tuổi ông đã mồ côi cha. Mẹ ông, một người đàn bà hay chữ, nhân hậu, tảo tần nuôi các con trong đói nghèo, cô đơn và đau khổ. Thế rồi 16 tuổi ông lại theo con đường của cha, bắt đầu tham gia tổ chức Việt Minh và dấn thân vào hành trình của cuộc đời tranh đấu. Sau cách mạng tháng tám ông làm ở tỉnh đoàn Nghệ An, rồi sau chiến thắng Điện Biên Phủ ông ra Hà Nội, làm ở Đại học Nhân dân, trở thành đại biểu thanh niên sinh viên Việt Nam đi dự Đại hội thanh niên sinh viên thế giới…

Với nguồn gốc gia đình và thành tích nổi bật thời tuổi trẻ, Sơn Tùng có thể có một con đường khác để trưởng thành. Nhưng không, ông không chọn lựa con đường bằng phẳng. Ông chọn con đường chông gai và sự hy sinh. Rời trường đại học, ông sang báo tiền phong, làm phóng viên chiến tranh lăn lộn trong bom đạn. Và rồi năm 1964 nhận nhiệm vụ vào Nam lập báo Thanh niên giải phóng, xách ba lô lên đường ngay sau khi nhận giấy báo tử một người em trai của ông vừa hy sinh ở chiến trường miền Trung. Suốt 7 năm lăn lộn làm báo ở chiến trường Nam bộ, năm 1971 ông bị thương bởi đạn M79, với 14 vết thương, mất đi 81 phần trăm sức khỏe, 3 mảnh đạn còn găm trong sọ não, thị lực còn chỉ một phần mười, hai bàn tay co quắp còn chỉ 3 ngón tay cử động được. Thế mà ông vẫn không lùi bước, trở về Hà Nội ông từ chối đi chữa bệnh dài hạn ở Trung Quốc, kiên trì tập luyện để trở thành người “tàn mà không phế”.

Nhà văn Sơn Tùng tâm niệm: “Đạo là gốc của văn”. Để tạo nên nhân cách người cầm bút của mình, Sơn Tùng đã lặng lẽ tự học suốt đời và luôn giữ một trái tim trong sáng, nhân hậu tuyệt vời, một tấm lòng yêu thương bao la và rộng mở. Ông là người mà ngòi bút luôn có chủ đích, với lòng kiên trì và khát vọng mãnh liệt dù luôn sống trong ngặt nghèo của thương tật, của hoàn cảnh khó khăn.

Ngoài mảng đề tài chiến tranh với các tiểu thuyết như “Lõm”, “Vườn nắng”, Sơn Tùng đã chọn lựa đề tài về Hồ Chí Minh và danh nhân cách mạng như phần chính yếu nhất trong sự nghiệp sáng tác của mình. Ông đã sống qua một cuộc cách mạng, đã hiểu những đau thương, tủi cực của dân tộc mình thuở còn nô lệ. Và ông đã tôn thờ, ngưỡng vọng Hồ Chí Minh khi người xuất hiện như một nguồn sáng trong cuộc đổi đời của cả dân tộc năm 1945. Thời hoạt động ở tỉnh đoàn Nghệ An Sơn Tùng đã tìm đến và trở thành người được anh trai, chị gái của Bác Hồ ký thác nhiều tâm sự và tư liệu quý. Suốt nhiều năm sau, ông nghiền ngẫm và liên tục gặp gỡ những người thân cận của Bác như cụ Vũ Đình huỳnh, Vũ Kỳ… để ghi chép tư liệu và sau này được Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Phạm Văn Đồng tin cậy chia sẻ thêm nhiều tư liệu quý. Với hệ thống tư liệu riêng, ông đã viết nên tiểu thuyết “Búp sen xanh” về thời thơ ấu, thời thanh niên của Bác được hàng triệu người đọc say mê, mến mộ. Và viết nhiều tiểu thuyết, truyện ký về những chặng đời hoạt động sau này của chủ tịch Hồ Chí Minh như: “Trái tim quả đất” xây dựng hình tượng Hồ Chí Minh qua chiến dịch Biên giới, “Bác về” về thời điểm từ Cách mạng tháng 8 đến khi kháng chiến toàn quốc nổ ra và nhiều tác phẩm giá trị khác như: “Nguyễn Ái Quốc qua ký ức bà mẹ Nga”, “Hoa râm bụt”, “Sáng ánh tâm đăng Hồ Chí Minh”…

Sơn Tùng là một trong những người có công đầu trong việc tạo ra một hệ thống tư liệu gốc về gia đình, quê hương, về tuổi thơ, về những mối quan hệ của Hồ Chí Minh thời trẻ. Hệ thống tư liệu ấy, cùng với ngòi bút khắc tạc nghiêm cẩn và tài tình của ông đã làm sống lại không chỉ hình tượng vĩ nhân mà còn gợi mở thêm những tư liệu quý về những thời khắc lịch sử đầu thế kỷ 20. Trong các trang sách của ông cũng làm sống dậy những tinh hoa văn hóa cổ truyền, những truyền thống tốt đẹp của tổ tiên ta. Sơn Tùng cũng là người đầu tiên thể hiện hình tượng Hồ Chí Minh thời trẻ với những vẻ đẹp bình dị, đời thường qua những câu chuyện trong gia đình, những rung động tinh tế qua mối tình trong trắng, thầm lặng với Út Huệ nhưng đành gác lại sau cuộc chia ly trên bến Nhà Rồng. Và Sơn Tùng không chỉ viết về tài trí của Hồ Chí Minh, rất nhiều tác phẩm ông chú trọng miêu tả vẻ đẹp bình dị, lòng yêu thương con người sâu sắc và khát vọng hòa bình của Bác.

Tất cả những vẻ đẹp đó trong tâm hồn, trí tuệ Hồ Chí Minh được nhà văn Sơn Tùng khắc tạc bằng ngòi bút nghiêm cẩn, qua những khoảnh khắc đặc biệt, điển hình trong cuộc đời Bác với những chi tiết có sức ám ảnh, qua ngôn ngữ chắt lọc, tinh tế mang phong cách riêng.

Sơn Tùng cũng là người suốt đời học và làm theo tấm gương của Bác. Sống và viết nhất quán. Ông là một mẫu mực về sự liêm khiết. Ông nói với tôi rằng: “Một đời hành thiện còn chưa đủ”. Suốt cả cuộc đời ông chỉ tâm niệm cố gắng hết sức làm điều thiện lành, mang lại điều tốt đẹp cho xã hội. Thời trẻ, khi đất nước có chiến tranh ông xả thân ở chiến trường. Khi bị thương nặng, trở về Hà Nội ông sống trong một căn nhà tập thể xập xệ chưa đến 20m2, không có công trình phụ, chan hòa với mọi người, cưu mang giúp đỡ biết bao người nghèo khó. Và hàng ngày tận tâm, tận lực viết. Viết như một định mệnh. Như một khát vọng. Một trách nhiệm. Khi xã hội chuyển đổi, nhiều người cầm quyền (kể cả những người ở cấp cao) tha hóa, thì ông là một trong những người đứng ra phê phán mạnh mẽ tệ tham nhũng, quan liêu, bè phái trong đảng, nêu một tấm gương mẫu mực về một người trí thức chân chính.

Đối với việc viết, nhà văn Sơn Tùng nghiêm cẩn trong từng chi tiết. Bất kỳ một chi tiết nào dù rất nhỏ, khi đưa vào trang viết cũng phải nghiền ngẫm thật kỹ. Dù là một tiểu thuyết dài hay một bài báo nhỏ ông đều thận trọng, suy nghĩ kỹ rồi mới viết. Viết bao giờ cũng có mục đích vì cái đẹp, vì cái có ích. “Văn nhân đích thị dấn thân hành đạo”. Đạo mà ông nói ở đây là lấy tổ quốc, lấy tình yêu thương con người đặt lên trên hết. Nhà văn phải sống và viết, nỗ lực hết lòng cho điều đó. Khi viết mà có được những câu, những từ gợi lên cảm xúc trong sáng của người đọc, hướng người đọc đến sự lương thiện thì đó là niềm vui của nhà văn. Đó là văn chương đã có ích.

Trong những năm tháng được gần ông, nhà văn Sơn Tùng luôn động viên khích lệ tôi trên từng bước trưởng thành trong nghề viết. Ông nhắc lại nhiều lần với tôi một câu nói của Hồ Chí Minh về nghề văn: “Chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó, nhân dân cũng sẽ quên anh ta…” Ông dặn tôi hãy mở tâm hồn để đón nhận cuộc sống, lắng nghe cuộc sống. Và chính cuộc sống sẽ giúp nhà văn biết anh nên viết như thế nào. Hãy bước qua những cầu kỳ, thời thượng, những vay mượn ở đâu đâu, hãy tìm sự dung dị, giản đơn và những điều thiết thân với cuộc đời để đưa vào trang viết.

Viết là một chuyện. Sống và viết song hành, nhất quán. Cuộc đời nhà văn Sơn Tùng là như vậy. Đặt cái chung lên trên cái riêng mình. Đặt nhân phẩm cao hơn lợi quyền. Luôn chống lại cái xấu, cái ác dù còn một hơi thở. Ông là một người anh hùng cầm bút. Một nhà văn của phẩm giá và thiên chức làm người.

Nguồn Văn nghệ số 31/2021.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm