TIN TỨC

“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
123 lượt xem

Đặng Bá Tiến

(Nhân đọc “Ru lá vào đêm” của Nguyễn Minh Thuận, NXB Phụ nữ 1.2024)

Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).

Nguyễn Minh Thuận

Những bài thơ tức sự, tức cảnh, hay những suy ngẫm về cuộc sống, lẽ đời của anh thường ngắn, nhưng ý tứ sâu xa, thâm trầm, ngôn ngữ, cấu tứ của bài thơ khá chuyên nghiệp khiến người đọc, trong đó có nhiều nhà thơ đã thành danh thích thú, khen ngợi. Khi anh còn làm Giám đốc Sở Tư Pháp, tôi đã khuyên: nên in một tập thơ. Nhưng anh chỉ cười cười, nói rằng: Em làm thơ cho vui thôi, khi nào nghỉ hưu, nếu thuận trời, thuận đất em sẽ in.

Năm 2022 Nguyễn Minh Thuận nghỉ hưu. Nhưng chưa kịp chọn được thời điểm thuận trời thuận đất để in tập thơ riêng, thì bất ngờ... anh phải rời bỏ thế gian! Cúi đầu, ôm mối đau thương vò xé tâm can, tuôn biết bao nước mắt xót xa, lo tang sự cho chồng xong, ngẩng mặt nhìn lại mình, nhìn lại con, nhìn lại mối tình duyên hơn 22 năm gắn bó keo sơn với Nguyễn Minh Thuận, người vợ hiền, hết mực yêu thương chồng, chợt nhận ra: chồng mình không hề đi xa, anh vẫn còn đây, mãi mãi trong vợ con, trong những bài thơ anh đã viết - những bài thơ ấy vẫn còn trong thế gian này, bởi cái tình thiết tha của anh với cuộc đời và cái tình thương mến của bao người đối với anh. Và thế là cô giáo Hiền tập hợp các bài thơ của chồng (dù chưa đầy đủ), nhờ bạn bè giúp đỡ để cho ra mắt tập thơ “Ru lá vào đêm” mà bây giờ nhiều người đang được nâng niu trên tay. Thay chồng cho ra đời tập thơ này, cô giáo Hiền chỉ có một mong ước: “...các cô chú, anh chị, các bạn đã cùng tôi và gia đình nhớ về anh Thuận khi đọc tập thơ “Ru lá vào đêm”. Tôi không biết thiên đường thực sự có hay không, nhưng tôi chắc chắn rằng, anh Thuận đang sống trong ký ức của người thân và bạn bè”.

Tập thơ “Ru lá vào đêm” có 55 bài, hầu hết là những bài thơ ngắn, chỉ 4 đến 8 câu. Mỗi bài là một cảm xúc bất chợt của Nguyễn Minh Thuận khi được hòa mình vào thiên nhiên, được chiêm ngắm vẻ đẹp của đất trời quê hương; là tình yêu với vợ con; những nỗi niềm, những băn khoăn, trăn trở về cuộc sống, nhân tình thế thái mà quá trình sống, trải nghiệm anh bất chợt nhận ra và ghi lại bằng thơ, theo quán tính tâm hồn của một đứa con vùng đất thơ Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh - quê hương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Không chủ ý làm thơ, nhưng ta thấy trong thơ anh hiện lên tất cả những gì mà con người quan tâm. Chẳng hạn về vấn đề môi trường, sự vô cảm của người đời trước số phận của đồng loại (trang 12), anh viết: “Đất khóc bạc phận đất/ Tuôn sông dài biển khơi/ Núi khóc dựng vách đá/ Mẹ bồng con giữa trời/ Rừng khóc cây nghiêng ngã/ Gió nghẹn lòng thung sâu/ Những trái tim gỗ đá/ Người có còn khóc nhau”. Ca dao đã nói về sen, đã nêu một bài học lớn về nhân cách làm người “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nhưng đứng trước sen, suy ngẫm về sen (trang 16), Nguyễn Minh Thuận có thêm một triết luận cũng thật sâu sắc và nhân văn: “Nhụy vàng bông trắng lá xanh/ không bùn thì cũng chẳng thành sen đâu”. Quả là ở đời không có “bùn”, không có những người lao động lam lũ, thì làm sao có những kẻ quyền quý, cao sang; không một người chân chính nào trưởng thành mà không phải trải qua những ngày phấn đấu rèn luyện gian khổ... Sống trong cõi nhân gian người ta thường toan tính đủ điều, rồi nhiểu người bất lực, oán hận thốt lên “chẳng hiều đời này ra sao nữa”. Nhưng có một điều người ta ít nghĩ tới, đó là muốn hiểu đời trước tiên cần hiểu mình, có hiểu mình mới có thể đưa ra những quyết định đúng, việc làm đúng để thành công trong cuộc sống. Nguyễn Minh Thuận nói về điều này thật minh triết: “Toan tính, bán mua, mưu cầu danh lợi/ Ta là ai kiếp người cát bụi/ Nổi trôi trong cõi phù sinh?/ Sao hiểu được trần gian khi không hiểu chính mình”. Sống trong cõi nhân gian này, điều quan trọng không phái là chức tước, địa vị, tiền bạc, bẻm mép... mà cái đáng quý hơn là hiểu được, thấm thía và chia sẻ được những nỗi niềm của nhân gian. Đấy cũng là điều anh gửi gắm trong bài thơ Nhân sinh (trang 21): “Hãy cúi xuống mặt đất/ Thấm nỗi đau nhân tình/ Đọc thêm vài trang sách/ Hiểu hơn kiếp nhân sinh/.../ Đừng mải mê danh lợi/ Chức tước chỉ phù vân/ Sống sao đừng để lại/ Vết nhơ trong cõi trần”. Và vì thế Nguyễn Minh Thuận luôn luôn biết soi mình vào thiên nhiên, soi mình vào cuộc đời, truyền thống quê hương để sống và vươn lên. Đấy là lối sống của một người hiểu mình, biết người, biết ta. Phải chăng vì thế mà anh nuôi dưỡng được cho mình một tâm hồn thanh tịnh, nhuần nhị để có thể cùng hòa mình vào thiên nhiên, cùng mê đắm, thổn thức với vạn vật, cây cỏ như trong hai bài thơ Vườn đêm 1, 2 của anh (trang 22, 23): “Vườn lặng im ướt đẫm sương đêm/ chợt bừng dậy hăng nồng mùi đất/ cỏ non xanh trải thảm mượt mềm/ lênh láng vàng tuôn trăng rót mật/ đất trời vào cuộc giao hoan/ gió rít từng cơn chất ngất/ sỏi đá tìm tan vào nhau...”;  “Tiếng tắc kè nhịp đôi khắc khoải/ dế hát điệu gì nghe buồn mê mải/ bìm bịp buông nỗi đau đáu vào sương/ tiếng đất thầm thì/ ru lá rụng vào đêm”.

Chùm thơ Thuận viết tặng vợ và chùm thơ viết tặng các con cũng là hai chùm thơ gây được xúc động với tôi mỗi lần đọc. Bài thơ Thuận tặng vợ mùa giáng sinh năm 2008 (trang 43) thật chân thành, nồng nàn yêu thương; bởi Thuận nhận ra từ khi có vợ, cuộc đời như chuyển sang trang mới đầy tươi vui, ấm áp, có vợ như là “Chạm vào nốt nhạc trần gian/ Bản tình ca vang ngân/ Mùa đông không còn lạnh nữa/ Em bình dị mà nồng nàn như lửa/ Dịu dàng như một đức tin/ Anh dọn lòng mình thành máng cỏ/ Em đến bên đời anh, Giáng Sinh”. Viết được những câu thơ: “tiếng đất thầm thì/ ru lá rụng vào đêm”, “Anh dọn lòng mình thành máng cỏ/ Em đến bên đời anh, Giáng Sinh”, đủ để khẳng định năng lực cao trong sáng tạo thi ca của Nguyễn Minh Thuận.

Như hầu hết người đời, yêu thương con là chăm sóc, vỗ về, dạy bảo con yêu quê hương, sống có nghĩa có tình, biết vươn lên khi vấp ngã... nhưng cái khác của Nguyễn Minh Thuận là dạy con bằng những bài thơ thủ thỉ, êm ái, chan chứa tình cảm, dễ dàng thấm vào gan ruột các con như mật ngọt (trang 45): “Con ơi! Nghi Xuân quê ta/ Nơi phần mộ ông bà con ở đó/ Bươn bả mãi vẫn chưa qua nghèo khó/ Phận người lam lũ quanh năm/ Sau này đi đâu con nhớ về thăm/ Ăn củ khoai lang/ Uống bát nước chè xanh đậm tình làng xóm/ Con sẽ hiểu những nhọc nhằn đã nuôi mình khôn lớn/ Sẽ thấy mình vững tâm...

 “Ru lá vào đêm” có nhiều bài hay, câu thơ hay, thể hiện sâu sắc tình cảm của Nguyễn Minh Thuận với cuộc đời, quê hương, vợ con, bạn bè, nhưng trong khuôn khổ của bài báo ngắn này tôi không thể giới thiệu và trích dẫn hết, chỉ xin dừng lại ở bài thơ “Vô ngôn thư” (trang 32) sau đây; bởi theo tôi, bài này thể hiện rõ nhất tấm lòng, tâm hồn và phẩm chất thi ca của Thuận: “Về vườn đọc “vô ngôn thư”/thấy tức tưởi nhú mầm trong đất/ khao khát tự do bật ra từ chồi biếc/ an ủi vỗ về của những nụ và hoa./ Bao mưu toan ủ kín kén hiền hòa/ những hiểm họa dập dìu muôn cánh bướm/ loài cỏ dại âm thầm dàn thế trận/ đất rộng lòng muôn thuở vẫn bao dung./ Cả một vườn chữ nghĩa xô nghiêng/ câu thanh, tục chập chờn hư ảo/ lặng lẽ đọc tiếng côn trung huyên náo/ đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”. Vâng, thực tế cuộc sống sẽ “đánh thức” chúng ta, cho ta nhận thức đầy đủ nhất về mọi điều; cho ta nhận biết rõ ràng nhất về sự đúng sai, về người tốt, kẻ xấu; cho ta tìm ra chân lý hơn cả ngàn trang sách hay lời nói lý thuyết suông!

         Đ.B.T 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người trẻ thử sức với phê bình
Được biết “Những phức cảm phận người” (NXB Hội Nhà văn, 2023) là tập phê bình văn học (PBVH) đầu tay của cây bút Lê Hương, nên tôi đọc với một tâm thế trân trọng và chờ đợi.
Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm