TIN TỨC

Đinh Nho Tuấn với ngàn tiếng đời ấp ủ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1933 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Bước qua tri thiên mệnh, Đinh Nho Tuấn mới dự phần sáng tạo vào đời sống văn chương. Không phải anh ngẫu nhiên trở thành nhà thơ trẻ sau tuổi 50, mà thi ca đã được âm thầm nuôi dưỡng trong anh từ thời thơ ấu. Rời xa chốn chôn nhau cắt rốn Hương Sơn – Hà Tĩnh, Đinh Nho Tuấn lăn lộn mưu sinh nơi xứ người mấy thập niên, và có không ít câu thơ trong trí nhớ hoặc trong tâm tưởng đã nâng anh lên khi vấp ngã, đã dìu anh dậy khi muộn phiền. Và rất tự nhiên, lúc nỗi dằn vặt cơm áo không còn đè nặng nữa, thì tiến sĩ kinh tế Đinh Nho Tuấn lặng lẽ ngồi xuống bàn và viết những câu thơ của đời mình, những câu thơ ngưng tụ “cõi nhớ dựng lên giữa ngày nhòa”.


Nhà thơ Đinh Nho Tuấn

Sau ba tập thơ xuất bản liên tục mỗi năm “Em hãy cho anh vội” (2018) “Em tôi” (2019) và “Díu dan với núi sông” (2020) thì thơ của Đinh Nho Tuấn cũng giãn cách như một dấu hiệu thời Covid-19. Rối bời giữa thông tin xét nghiệm và cách ly, mạch thơ Đinh Nho Tuấn đằm sâu hơn và thổn thức hơn. Tập thơ thứ tư “Ngàn tiếng đời ấp ủ” xuất hiện trong năm 2022 do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, đúng kiểu thích ứng bình thường mới, lại cho thấy một tâm tư khác ở Đinh Nho Tuấn.

Vẫn giữ cái duyên của một người nói giọng trầm, Đinh Nho Tuấn cứ thủ thỉ những câu thơ tỉ tê chuyện mình ngậm ngùi, chuyện người xa vắng: “Anh đi học bằng vô tư hoàng hôn/ học chồi non, học mởn xanh, hoa tím/ học phong ba, học câu hát núi đồi/ học tiếng chim, biển khơi, cát mịn”. Đôi lúc anh hoảng hốt “Cái xa lạ ta đã quen thân/ Đời rụng lá, mùa còn chuông còn tiếng”, nhưng anh không phẫn nộ gào thét mà chọn thái độ nhẫn nại “Cơn mưa vừa đi vừa hát kia/ Gây tê buốt nhiều trái tim chưa ngủ”.

Nhịp điệu thơ Đinh Nho Tuấn chậm và buồn, dềnh dứ và bâng khuâng. Bởi lẽ, trước mặt anh là trang giấy trắng réo gọi chữ nghĩa tuôn trào, mà xung quanh anh bạt ngàn kỷ niệm giăng mắc. Anh xoay phía nào cũng gặp những hồi ức chênh vênh “Ngày quê hương chần chừ đơm nếp mới/ Tiếng em thơ dịu ánh trăng về/ Mái đình xưa hoe hoe màu tóc bạc/ Khói nhà ai chưa tỉnh cơn mê” nên thường xuyên nhắc nhở bản thân “Thương cả nát tan, thương nhè nhẹ/ Thương gió ngàn sâu, gió trong đời”.

Từng hình ảnh đã xa mà chưa khuất, đã xưa mà chưa cũ, lần lượt hiện ra trong thơ Đinh Nho Tuấn. Hình ảnh phụ thân “Đêm giao thừa, gia tài cha nồi bánh/ Khuôn mặt cha lay phên liếp không lời” và hình ảnh mẫu thân “Tóc mẹ uống ngàn sương sớm/ Vườn xưa phất phới lau trời” không chìm đi trong hình ảnh cố hương khắc khoải tháng ngày thương khó âu lo “Gom lá vườn vô tình con đốt hết/ Khói trắng lên trời con đứng lại bơ vơ”.

Đinh Nho Tuấn mang thân phận tha phương, mỗi ngọn cỏ bên đường cũng bật xanh như ánh đèn canh khuya hư ảo. Anh nâng niu “những buổi chiều ngun ngún môi hôn” vì luôn thấu hiểu “Rơm rạ ngủ vùi, sương khói ngày đông/ Lửa tí tách trong lòng người viễn xứ”. Anh bồi hồi “Những dịu ngọt một thời xưa cũ/ Trôi như mây muôn ngả xa xăm” vì luôn mê đắm “Những mảnh tim rắc đều muôn phía/ Bay thành hoa giữa cỏ dại hoang vu”.

Đinh Nho Tuấn đã chịu đựng nhiều cách biệt và đã trải nghiệm đủ bôn ba, khiến anh dễ dàng đồng cảm với tha nhân. Anh chia sẻ kiếp mệnh người nông dân một cách chân thành: “Thế kỷ qua họ đi chậm rãi/ mồ hôi tuôn suối/ kết thành đường ray/ nâng con tàu Tổ quốc/ Họ dừng lại bạn bầu thiên nhiên tàn khốc/ với mất mùa và niềm hy vọng mong manh”. Cho nên, anh xót xa những cuộc di tản lầm lũi khỏi đô thị trước sự nghiệt ngã đại dịch toàn cầu: “Em lên đường rồi/ Đoạn trường xóa em trong vệt khói/ Hành lý là giấc mơ/ Giấc mơ đêm qua góc giường bị trói”.

Nhà thơ ở thế kỷ 21 phải gánh vác sứ mệnh che chở sự thật bị đánh úp bởi bao ngọt ngào gian trá. Đinh Nho Tuấn trong tập thơ thứ tư “Ngàn tiếng đời ấp ủ” thấm thía điều ấy, để nhủ lòng “Ngày cuối năm, sách thời gian khép lại/ trên kệ đời thiêm thiếp ngủ ngày qua”. Anh lắng nghe từng chuyển động lạnh lẽo xung quanh “người trốn hết rồi/ tiếng rao đêm rơi thăm thẳm” và hình dung một không gian cần thức tỉnh “Dòng sông trưởng thành, phố lên tóc bạc/ Bài thơ ngày qua, hôm nay khát nhạc/ Em vui em khóc, em buồn em khóc/ Em sợ ngày mai, nước khô trong mắt”. Không thờ ơ, không buông xuôi, Đinh Nho Tuấn thẳng thắn bày tỏ: “Thời cuộc đỏ đen người buôn kẻ bán/ Giá lương tâm lên xuống bất thường/ Nhắm mắt tôi cầu nguyện/ Cầu nguyện cho con người/ Cầu nguyện cho quê hương/ Thánh thần trên cao nghe hay không lời của tôi/ Tôi không biết, việc của tôi là cầu nguyện”.

Đọc thơ Đinh Nho Tuấn, có thể nhận ra giữa những dòng hờ hững luôn được gieo những câu mong ngóng. Anh đi tìm cái đẹp đang chìm dưới xô bồ ranh mãnh danh lợi bằng tất cả sự tin yêu “Anh nhốt cho em bài thơ vào lồng ngực/ Kẻo ngày mai theo gió lạnh bay đi”. Cái đẹp phân vân ngỡ thoáng trôi đã đọng lại thơ anh “Mỗi bông hoa là một dòng kinh thánh/ Ngân trong chiều vọng âm sắc niềm vui”. Lắm phen anh reo lên cùng cái đẹp vô tư vẫn vượt lên mọi dửng dưng để tồn tại “Kìa những bông hoa giấy/ Giàn đồng ca của chúng lấn át tiếng hát con người”.

Không cố tình diêm dúa, không có tình đẩy đưa, Đinh Nho Tuấn phát hiện hồn vía sự vật thật tự nhiên và thật tinh tế, khi “Mùa chùng xuống, lá thu chờ thắp lửa/ Hạ chưa tàn gió đã nhuốm heo may”, khi “Những ngôi nhà mắt díp giữa không gian/ Hương rượu mạch thơm nồng cửa sổ” và khi “mắt khép hờ cúc hoạ mi chiều tối/ tòa sen nào đã kịp gói lời ru”. Để từ đó, Đinh Nho Tuấn tri ân mỗi hạnh ngộ yên bình “Cái màu tím vịn tay vào gió/ Dường thơm hương dẫn lối anh đi”.

Đinh Nho Tuấn làm thơ như một hành trình tự vấn “giữa phai tàn nhiều câu hỏi ngổn ngang”. Anh chứng kiến “mây trắng lấp đầy sông Sài Gòn” để chột dạ nôn nao “hoa mua đi về phía không có chúng ta”. Nhờ vậy, anh ý thức nỗ lực níu giữ những khoảnh khắc mong manh “Hương thơm sót lại trong tà áo mỏng/ Cửa sổ nhà ai ánh mắt vời xa”.

Với tập thơ thứ tư “Ngàn tiếng đời ấp ủ”, Đinh Nho Tuấn có được một “cõi nhớ dựng lên giữa ngày nhòa” để vỗ về, để an ủi, để nâng niu. Thi ca đã giúp anh khơi gợi sự ân cần giữa người với người “chúng ta thương nhau qua tấm vé một chiều đi chung”./.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bùi Việt Mỹ - Nhà thơ của bức họa ngoại thành thủ đô
Tôi nhớ đầu năm 1991, Bùi Việt Mỹ về làm Chánh văn phòng Hội Văn Nghệ Hà Nội. Lúc ấy nhà thơ Vũ Quần Phương làm Chủ tịch Hội. Sau đó, nhà thơ Vũ Quần Phương chuyển sang làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội, nhà văn Tô Hoài trở về làm Chủ tịch Hội, cho đến năm 1996, khi nhà thơ Bằng Việt đang công tác ở Ủy ban Thành phố được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Văn nghệ Hà Nội có 9 hội chuyên ngành tới hiện giờ.
Xem thêm
Đi tìm đôi mắt theo suốt đời người
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM
Xem thêm
Nguyên Hùng với nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt - hai trong một
Nguồn: Văn nghệ Công an số thứ Năm, ngày 17/10/2024
Xem thêm
Một cây bút nhạy bén, giàu tình
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm
Những vần thơ sáng nghĩa kim bằng
Nhà thơ Trinh Bửu Hoài là người bạn văn tốt của tôi đã quen thân nhau từ năm 1970 khi anh hoạt động văn nghệ ở An Giang. Cách nay hơn 10 năm, sau khi nhà văn quá cố Nguyễn Khai Phong đã vài lần giục tôi làm đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cùng với tán thành của nhà thơ đánh kính Trịnh Bửu Hoài. Dù biết ở Cần Thơ mình là người mồ côi, kém tài lại vụng về trong giao tiếp nên ít có bằng hữu tình thâm, năm 1918, tôi vẫn đánh bạo nghe lời những người bạn tốt xin vô Hội Nhà văn Việt Nam với sự giới thiệu nhiệt tình cùng lúc của các nhà văn : Nguyễn Khai Phong, Trịnh Bửu Hoài, Lê Đình Bích, Lương Minh Hinh, Nguyễn Trọng Tín. Mặc dù biết rằng với mình, con đường về La Mã vẫn còn diệu vợi ! Hôm nay, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã về với cõi Ly Tao bất diệt, tôi viết bài này để ân tình bày tỏ lòng nhớ ơn anh, một thi sĩ tài hoa nhân cách rất tốt với bạn bè.
Xem thêm
Nội trú trong ta một nỗi buồn
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024
Xem thêm
Thấy gì từ “Ký họa thơ” của Nguyên Hùng?
Bài viết của Lê Xuân Lâm, cộng tác viên tích cực của Văn chương TPHCM.
Xem thêm
Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm