TIN TỨC

Đinh Nho Tuấn với ngàn tiếng đời ấp ủ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-24 20:28:45
mail facebook google pos stwis
2667 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Bước qua tri thiên mệnh, Đinh Nho Tuấn mới dự phần sáng tạo vào đời sống văn chương. Không phải anh ngẫu nhiên trở thành nhà thơ trẻ sau tuổi 50, mà thi ca đã được âm thầm nuôi dưỡng trong anh từ thời thơ ấu. Rời xa chốn chôn nhau cắt rốn Hương Sơn – Hà Tĩnh, Đinh Nho Tuấn lăn lộn mưu sinh nơi xứ người mấy thập niên, và có không ít câu thơ trong trí nhớ hoặc trong tâm tưởng đã nâng anh lên khi vấp ngã, đã dìu anh dậy khi muộn phiền. Và rất tự nhiên, lúc nỗi dằn vặt cơm áo không còn đè nặng nữa, thì tiến sĩ kinh tế Đinh Nho Tuấn lặng lẽ ngồi xuống bàn và viết những câu thơ của đời mình, những câu thơ ngưng tụ “cõi nhớ dựng lên giữa ngày nhòa”.


Nhà thơ Đinh Nho Tuấn

Sau ba tập thơ xuất bản liên tục mỗi năm “Em hãy cho anh vội” (2018) “Em tôi” (2019) và “Díu dan với núi sông” (2020) thì thơ của Đinh Nho Tuấn cũng giãn cách như một dấu hiệu thời Covid-19. Rối bời giữa thông tin xét nghiệm và cách ly, mạch thơ Đinh Nho Tuấn đằm sâu hơn và thổn thức hơn. Tập thơ thứ tư “Ngàn tiếng đời ấp ủ” xuất hiện trong năm 2022 do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, đúng kiểu thích ứng bình thường mới, lại cho thấy một tâm tư khác ở Đinh Nho Tuấn.

Vẫn giữ cái duyên của một người nói giọng trầm, Đinh Nho Tuấn cứ thủ thỉ những câu thơ tỉ tê chuyện mình ngậm ngùi, chuyện người xa vắng: “Anh đi học bằng vô tư hoàng hôn/ học chồi non, học mởn xanh, hoa tím/ học phong ba, học câu hát núi đồi/ học tiếng chim, biển khơi, cát mịn”. Đôi lúc anh hoảng hốt “Cái xa lạ ta đã quen thân/ Đời rụng lá, mùa còn chuông còn tiếng”, nhưng anh không phẫn nộ gào thét mà chọn thái độ nhẫn nại “Cơn mưa vừa đi vừa hát kia/ Gây tê buốt nhiều trái tim chưa ngủ”.

Nhịp điệu thơ Đinh Nho Tuấn chậm và buồn, dềnh dứ và bâng khuâng. Bởi lẽ, trước mặt anh là trang giấy trắng réo gọi chữ nghĩa tuôn trào, mà xung quanh anh bạt ngàn kỷ niệm giăng mắc. Anh xoay phía nào cũng gặp những hồi ức chênh vênh “Ngày quê hương chần chừ đơm nếp mới/ Tiếng em thơ dịu ánh trăng về/ Mái đình xưa hoe hoe màu tóc bạc/ Khói nhà ai chưa tỉnh cơn mê” nên thường xuyên nhắc nhở bản thân “Thương cả nát tan, thương nhè nhẹ/ Thương gió ngàn sâu, gió trong đời”.

Từng hình ảnh đã xa mà chưa khuất, đã xưa mà chưa cũ, lần lượt hiện ra trong thơ Đinh Nho Tuấn. Hình ảnh phụ thân “Đêm giao thừa, gia tài cha nồi bánh/ Khuôn mặt cha lay phên liếp không lời” và hình ảnh mẫu thân “Tóc mẹ uống ngàn sương sớm/ Vườn xưa phất phới lau trời” không chìm đi trong hình ảnh cố hương khắc khoải tháng ngày thương khó âu lo “Gom lá vườn vô tình con đốt hết/ Khói trắng lên trời con đứng lại bơ vơ”.

Đinh Nho Tuấn mang thân phận tha phương, mỗi ngọn cỏ bên đường cũng bật xanh như ánh đèn canh khuya hư ảo. Anh nâng niu “những buổi chiều ngun ngún môi hôn” vì luôn thấu hiểu “Rơm rạ ngủ vùi, sương khói ngày đông/ Lửa tí tách trong lòng người viễn xứ”. Anh bồi hồi “Những dịu ngọt một thời xưa cũ/ Trôi như mây muôn ngả xa xăm” vì luôn mê đắm “Những mảnh tim rắc đều muôn phía/ Bay thành hoa giữa cỏ dại hoang vu”.

Đinh Nho Tuấn đã chịu đựng nhiều cách biệt và đã trải nghiệm đủ bôn ba, khiến anh dễ dàng đồng cảm với tha nhân. Anh chia sẻ kiếp mệnh người nông dân một cách chân thành: “Thế kỷ qua họ đi chậm rãi/ mồ hôi tuôn suối/ kết thành đường ray/ nâng con tàu Tổ quốc/ Họ dừng lại bạn bầu thiên nhiên tàn khốc/ với mất mùa và niềm hy vọng mong manh”. Cho nên, anh xót xa những cuộc di tản lầm lũi khỏi đô thị trước sự nghiệt ngã đại dịch toàn cầu: “Em lên đường rồi/ Đoạn trường xóa em trong vệt khói/ Hành lý là giấc mơ/ Giấc mơ đêm qua góc giường bị trói”.

Nhà thơ ở thế kỷ 21 phải gánh vác sứ mệnh che chở sự thật bị đánh úp bởi bao ngọt ngào gian trá. Đinh Nho Tuấn trong tập thơ thứ tư “Ngàn tiếng đời ấp ủ” thấm thía điều ấy, để nhủ lòng “Ngày cuối năm, sách thời gian khép lại/ trên kệ đời thiêm thiếp ngủ ngày qua”. Anh lắng nghe từng chuyển động lạnh lẽo xung quanh “người trốn hết rồi/ tiếng rao đêm rơi thăm thẳm” và hình dung một không gian cần thức tỉnh “Dòng sông trưởng thành, phố lên tóc bạc/ Bài thơ ngày qua, hôm nay khát nhạc/ Em vui em khóc, em buồn em khóc/ Em sợ ngày mai, nước khô trong mắt”. Không thờ ơ, không buông xuôi, Đinh Nho Tuấn thẳng thắn bày tỏ: “Thời cuộc đỏ đen người buôn kẻ bán/ Giá lương tâm lên xuống bất thường/ Nhắm mắt tôi cầu nguyện/ Cầu nguyện cho con người/ Cầu nguyện cho quê hương/ Thánh thần trên cao nghe hay không lời của tôi/ Tôi không biết, việc của tôi là cầu nguyện”.

Đọc thơ Đinh Nho Tuấn, có thể nhận ra giữa những dòng hờ hững luôn được gieo những câu mong ngóng. Anh đi tìm cái đẹp đang chìm dưới xô bồ ranh mãnh danh lợi bằng tất cả sự tin yêu “Anh nhốt cho em bài thơ vào lồng ngực/ Kẻo ngày mai theo gió lạnh bay đi”. Cái đẹp phân vân ngỡ thoáng trôi đã đọng lại thơ anh “Mỗi bông hoa là một dòng kinh thánh/ Ngân trong chiều vọng âm sắc niềm vui”. Lắm phen anh reo lên cùng cái đẹp vô tư vẫn vượt lên mọi dửng dưng để tồn tại “Kìa những bông hoa giấy/ Giàn đồng ca của chúng lấn át tiếng hát con người”.

Không cố tình diêm dúa, không có tình đẩy đưa, Đinh Nho Tuấn phát hiện hồn vía sự vật thật tự nhiên và thật tinh tế, khi “Mùa chùng xuống, lá thu chờ thắp lửa/ Hạ chưa tàn gió đã nhuốm heo may”, khi “Những ngôi nhà mắt díp giữa không gian/ Hương rượu mạch thơm nồng cửa sổ” và khi “mắt khép hờ cúc hoạ mi chiều tối/ tòa sen nào đã kịp gói lời ru”. Để từ đó, Đinh Nho Tuấn tri ân mỗi hạnh ngộ yên bình “Cái màu tím vịn tay vào gió/ Dường thơm hương dẫn lối anh đi”.

Đinh Nho Tuấn làm thơ như một hành trình tự vấn “giữa phai tàn nhiều câu hỏi ngổn ngang”. Anh chứng kiến “mây trắng lấp đầy sông Sài Gòn” để chột dạ nôn nao “hoa mua đi về phía không có chúng ta”. Nhờ vậy, anh ý thức nỗ lực níu giữ những khoảnh khắc mong manh “Hương thơm sót lại trong tà áo mỏng/ Cửa sổ nhà ai ánh mắt vời xa”.

Với tập thơ thứ tư “Ngàn tiếng đời ấp ủ”, Đinh Nho Tuấn có được một “cõi nhớ dựng lên giữa ngày nhòa” để vỗ về, để an ủi, để nâng niu. Thi ca đã giúp anh khơi gợi sự ân cần giữa người với người “chúng ta thương nhau qua tấm vé một chiều đi chung”./.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm