TIN TỨC

Đinh Nho Tuấn với ngàn tiếng đời ấp ủ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-24 20:28:45
mail facebook google pos stwis
2781 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Bước qua tri thiên mệnh, Đinh Nho Tuấn mới dự phần sáng tạo vào đời sống văn chương. Không phải anh ngẫu nhiên trở thành nhà thơ trẻ sau tuổi 50, mà thi ca đã được âm thầm nuôi dưỡng trong anh từ thời thơ ấu. Rời xa chốn chôn nhau cắt rốn Hương Sơn – Hà Tĩnh, Đinh Nho Tuấn lăn lộn mưu sinh nơi xứ người mấy thập niên, và có không ít câu thơ trong trí nhớ hoặc trong tâm tưởng đã nâng anh lên khi vấp ngã, đã dìu anh dậy khi muộn phiền. Và rất tự nhiên, lúc nỗi dằn vặt cơm áo không còn đè nặng nữa, thì tiến sĩ kinh tế Đinh Nho Tuấn lặng lẽ ngồi xuống bàn và viết những câu thơ của đời mình, những câu thơ ngưng tụ “cõi nhớ dựng lên giữa ngày nhòa”.


Nhà thơ Đinh Nho Tuấn

Sau ba tập thơ xuất bản liên tục mỗi năm “Em hãy cho anh vội” (2018) “Em tôi” (2019) và “Díu dan với núi sông” (2020) thì thơ của Đinh Nho Tuấn cũng giãn cách như một dấu hiệu thời Covid-19. Rối bời giữa thông tin xét nghiệm và cách ly, mạch thơ Đinh Nho Tuấn đằm sâu hơn và thổn thức hơn. Tập thơ thứ tư “Ngàn tiếng đời ấp ủ” xuất hiện trong năm 2022 do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, đúng kiểu thích ứng bình thường mới, lại cho thấy một tâm tư khác ở Đinh Nho Tuấn.

Vẫn giữ cái duyên của một người nói giọng trầm, Đinh Nho Tuấn cứ thủ thỉ những câu thơ tỉ tê chuyện mình ngậm ngùi, chuyện người xa vắng: “Anh đi học bằng vô tư hoàng hôn/ học chồi non, học mởn xanh, hoa tím/ học phong ba, học câu hát núi đồi/ học tiếng chim, biển khơi, cát mịn”. Đôi lúc anh hoảng hốt “Cái xa lạ ta đã quen thân/ Đời rụng lá, mùa còn chuông còn tiếng”, nhưng anh không phẫn nộ gào thét mà chọn thái độ nhẫn nại “Cơn mưa vừa đi vừa hát kia/ Gây tê buốt nhiều trái tim chưa ngủ”.

Nhịp điệu thơ Đinh Nho Tuấn chậm và buồn, dềnh dứ và bâng khuâng. Bởi lẽ, trước mặt anh là trang giấy trắng réo gọi chữ nghĩa tuôn trào, mà xung quanh anh bạt ngàn kỷ niệm giăng mắc. Anh xoay phía nào cũng gặp những hồi ức chênh vênh “Ngày quê hương chần chừ đơm nếp mới/ Tiếng em thơ dịu ánh trăng về/ Mái đình xưa hoe hoe màu tóc bạc/ Khói nhà ai chưa tỉnh cơn mê” nên thường xuyên nhắc nhở bản thân “Thương cả nát tan, thương nhè nhẹ/ Thương gió ngàn sâu, gió trong đời”.

Từng hình ảnh đã xa mà chưa khuất, đã xưa mà chưa cũ, lần lượt hiện ra trong thơ Đinh Nho Tuấn. Hình ảnh phụ thân “Đêm giao thừa, gia tài cha nồi bánh/ Khuôn mặt cha lay phên liếp không lời” và hình ảnh mẫu thân “Tóc mẹ uống ngàn sương sớm/ Vườn xưa phất phới lau trời” không chìm đi trong hình ảnh cố hương khắc khoải tháng ngày thương khó âu lo “Gom lá vườn vô tình con đốt hết/ Khói trắng lên trời con đứng lại bơ vơ”.

Đinh Nho Tuấn mang thân phận tha phương, mỗi ngọn cỏ bên đường cũng bật xanh như ánh đèn canh khuya hư ảo. Anh nâng niu “những buổi chiều ngun ngún môi hôn” vì luôn thấu hiểu “Rơm rạ ngủ vùi, sương khói ngày đông/ Lửa tí tách trong lòng người viễn xứ”. Anh bồi hồi “Những dịu ngọt một thời xưa cũ/ Trôi như mây muôn ngả xa xăm” vì luôn mê đắm “Những mảnh tim rắc đều muôn phía/ Bay thành hoa giữa cỏ dại hoang vu”.

Đinh Nho Tuấn đã chịu đựng nhiều cách biệt và đã trải nghiệm đủ bôn ba, khiến anh dễ dàng đồng cảm với tha nhân. Anh chia sẻ kiếp mệnh người nông dân một cách chân thành: “Thế kỷ qua họ đi chậm rãi/ mồ hôi tuôn suối/ kết thành đường ray/ nâng con tàu Tổ quốc/ Họ dừng lại bạn bầu thiên nhiên tàn khốc/ với mất mùa và niềm hy vọng mong manh”. Cho nên, anh xót xa những cuộc di tản lầm lũi khỏi đô thị trước sự nghiệt ngã đại dịch toàn cầu: “Em lên đường rồi/ Đoạn trường xóa em trong vệt khói/ Hành lý là giấc mơ/ Giấc mơ đêm qua góc giường bị trói”.

Nhà thơ ở thế kỷ 21 phải gánh vác sứ mệnh che chở sự thật bị đánh úp bởi bao ngọt ngào gian trá. Đinh Nho Tuấn trong tập thơ thứ tư “Ngàn tiếng đời ấp ủ” thấm thía điều ấy, để nhủ lòng “Ngày cuối năm, sách thời gian khép lại/ trên kệ đời thiêm thiếp ngủ ngày qua”. Anh lắng nghe từng chuyển động lạnh lẽo xung quanh “người trốn hết rồi/ tiếng rao đêm rơi thăm thẳm” và hình dung một không gian cần thức tỉnh “Dòng sông trưởng thành, phố lên tóc bạc/ Bài thơ ngày qua, hôm nay khát nhạc/ Em vui em khóc, em buồn em khóc/ Em sợ ngày mai, nước khô trong mắt”. Không thờ ơ, không buông xuôi, Đinh Nho Tuấn thẳng thắn bày tỏ: “Thời cuộc đỏ đen người buôn kẻ bán/ Giá lương tâm lên xuống bất thường/ Nhắm mắt tôi cầu nguyện/ Cầu nguyện cho con người/ Cầu nguyện cho quê hương/ Thánh thần trên cao nghe hay không lời của tôi/ Tôi không biết, việc của tôi là cầu nguyện”.

Đọc thơ Đinh Nho Tuấn, có thể nhận ra giữa những dòng hờ hững luôn được gieo những câu mong ngóng. Anh đi tìm cái đẹp đang chìm dưới xô bồ ranh mãnh danh lợi bằng tất cả sự tin yêu “Anh nhốt cho em bài thơ vào lồng ngực/ Kẻo ngày mai theo gió lạnh bay đi”. Cái đẹp phân vân ngỡ thoáng trôi đã đọng lại thơ anh “Mỗi bông hoa là một dòng kinh thánh/ Ngân trong chiều vọng âm sắc niềm vui”. Lắm phen anh reo lên cùng cái đẹp vô tư vẫn vượt lên mọi dửng dưng để tồn tại “Kìa những bông hoa giấy/ Giàn đồng ca của chúng lấn át tiếng hát con người”.

Không cố tình diêm dúa, không có tình đẩy đưa, Đinh Nho Tuấn phát hiện hồn vía sự vật thật tự nhiên và thật tinh tế, khi “Mùa chùng xuống, lá thu chờ thắp lửa/ Hạ chưa tàn gió đã nhuốm heo may”, khi “Những ngôi nhà mắt díp giữa không gian/ Hương rượu mạch thơm nồng cửa sổ” và khi “mắt khép hờ cúc hoạ mi chiều tối/ tòa sen nào đã kịp gói lời ru”. Để từ đó, Đinh Nho Tuấn tri ân mỗi hạnh ngộ yên bình “Cái màu tím vịn tay vào gió/ Dường thơm hương dẫn lối anh đi”.

Đinh Nho Tuấn làm thơ như một hành trình tự vấn “giữa phai tàn nhiều câu hỏi ngổn ngang”. Anh chứng kiến “mây trắng lấp đầy sông Sài Gòn” để chột dạ nôn nao “hoa mua đi về phía không có chúng ta”. Nhờ vậy, anh ý thức nỗ lực níu giữ những khoảnh khắc mong manh “Hương thơm sót lại trong tà áo mỏng/ Cửa sổ nhà ai ánh mắt vời xa”.

Với tập thơ thứ tư “Ngàn tiếng đời ấp ủ”, Đinh Nho Tuấn có được một “cõi nhớ dựng lên giữa ngày nhòa” để vỗ về, để an ủi, để nâng niu. Thi ca đã giúp anh khơi gợi sự ân cần giữa người với người “chúng ta thương nhau qua tấm vé một chiều đi chung”./.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm