TIN TỨC

Một cây bút trưởng thành từ sau ngày kết thúc chiến tranh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-17 04:58:33
mail facebook google pos stwis
2504 lượt xem

LÊ THÀNH NGHỊ

Trong số những nhà thơ nữ tôi đã được đọc, Đinh Thị Thu Vân để lại ấn tượng khó quên. Đọc chị khá nhiều, nhưng gặp chị lại rất ít. Hầu như tôi không biết gì về con người ngoài đời của chị. Chỉ thoáng gặp một lần chỗ đông người giữa một ngày rét đông Hà Nội cuối năm 2018. Thiếu phụ như cây trúc mảnh mai, lạ lẫm trong làn áo ấm mà tôi đoán lâu lắm chị mới đem ra dùng khi đụng cái rét miền Bắc. Giọng nói nhỏ nhẹ, thận trọng mà cởi mở, nét nhân từ hiện trên gương mặt hơi buồn. Hiển nhiên, mới gặp “một thoáng” thì những gì sâu kín là không thể biết.

Nhà thơ Đinh Thị Thu Vân

Nhưng với nhà thơ, nếu muốn, cũng có thể có những con đường để tìm hiểu thế giới nội tâm sâu kín của họ. Vì thơ là “biên bản của tâm hồn”, nhật ký của cảm xúc, tự sự của trái tim, diễn ngôn của xúc động… Những ký thác trong thơ trữ tình phần lớn là “lời tự thú với bản thân” của nhân vật trữ tình. Người thơ phong vận như thơ ấy (HMT). Và đấy chính là tín hiệu, là chìa khóa, là “mã vạch” để thiết lập “giao diện”, như thể mở lối vào một “vuông vườn không bao giờ đóng kín” trên mỗi trang viết. Tôi chọn góc độ này để tiếp cận thơ Đinh Thị Thu Vân.

Đinh Thị Thu Vân là nhà thơ trữ tình giàu cảm xúc, rất nữ tính. “Vuông vườn” thơ chị chủ yếu biểu hiện nội cảm, tình cảm từ bên trong của tâm hồn chị: tinh tế và lãng mạn, khát khao và ước vọng, xót xa và khắc khoải…của chị. Nói chủ yếu là vì rất ít trong thơ chị những trang “miêu tả hiện thực”, vắng hẳn chuyện “thế sự đời thường” cơm áo gạo tiền, không thấy những biến cố, sự kiện “thời sự”, ít khi bắt gặp những rắc rối trần thế ngoài câu chuyện duyên phận. Hướng nội toàn tâm làm cõi nhân gian trở nên khép kín, trong khi cõi nhân duyên trong tâm hồn mở hết biên độ. Đó là thế mạnh và cũng là điểm yếu của thơ Đinh Thị Thu Vân.

Có thể hình dung Đinh Thị Thu Vân là “người đàn bà yêu”. Ấn tượng về cái vẻ bên ngoài “e lệ” trong cảm nhận thoáng qua của những ai mới gặp chị, sẽ vỡ vụn nếu đọc thơ chị. Thì ra, trong cây trúc mảnh mai kia đã chất chứa bão tố:

em trôi về hướng gió

em trôi về hướng mây

em trôi về hướng nhớ

yêu như chưa bao giò

…yêu như là cạn sức

yêu như là cạn tim

yêu như là cạn máu

không còn lần yêu thêm

(Mang nỗi buồn tay trắng)

Dù “trôi về hướng nhớ” nhưng không đơn giản chỉ là thương nhớ: Sao có thể chỉ gọi là thương nhớ /nỗi tương tư tiền kiếp mãi sôi trào (Em không thể cam lòng trôi nổi), Chẳng phải yêu đâu – là em đang cạn máu /đang khát đến tận cùng, đang cháy đến tàn hơi…/em đốt đời em lần cuối (Em không thể cam lòng trôi nổi)…Ngôn từ căng hết biên độ “tiền kiếp”, “sôi trào”, và trên kia “cạn sức”, “cạn tim”, “cạn máu”, biện giải rất quyết liệt “sao có thể”, khát vọng cao đến đỉnh “tận cùng”, “tàn hơi”, “lần cuối”…cho thấy chị đã yêu như thể là lần cuối:

em không phải là người có thể

vừa quay lưng đã vội vã quên rôi…

em làm cát, em làm bùn, em xin làm đất vụn

lấp cho đầy hoang rỗng lòng anh

(Nhật ký).

yêu cạn trắng sông xanh và biển biếc

yêu như chỉ còn hôm nay, ngày mai đã là chết

(Dành cho em đôi phút lắng lòng đi).

Đây chính là phẩm giá của người phụ nữ: không dễ dàng để có tình yêu, và một khi đã yêu thì không dễ dàng vừa quay lưng đã vội vã quên rồi, không phải là phút xao lòng thoáng qua, không phải “lời yêu mỏng mảnh như màu khói” (Xuân Quỳnh) mà là “một lời như thể lưỡi cưa” (Hữu Thỉnh), một quyết định dứt khoát và quả quyết, không mang tính nhị nguyên, nước đôi. Tình yêu trong thơ Đinh Thị Thu Vân mãnh liệt, cao cả, tan chảy, đầy đức hy sinh: em làm cát, em làm bùn…, làm đất vụn. Đâu đây, triết lý một thời của “Ông hoàng thơ tình” họ Ngô quê Trảo Nha Hà Tĩnh: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối (Xuân Diệu) lại tìm được mảnh đất màu mỡ để thêm lần nữa mọc lên “xanh biếc cây đời” trong tâm hồn một nữ nhà thơ thời hiện đại.

Nhưng nói thế cũng chỉ là câu chuyện chữ nghĩa thôi, với chị đâu phải là mơ ước hão huyền. Như bao thiếu phụ khác, một vòng tay thiết thực, một bờ vai tin cậy, một cánh cửa chờ đợi mỗi khi đi xa về, nghĩa là những hiện thân của hai chữ “bình yên”, với chị thế là đủ: Vai anh rộng để em thèm bé nhỏ /mơ một ngày yên ngủ giữa vòng tay (Nhớ):

ước chi biển mặn nồng thêm chút nữa

ước chi mây phiêu lãng biết quay về

ước chi người dừng lại hỏi han thôi

quên tất cả - bình yên – tôi sẽ hứa

(Trong góc tối)

Em đâu dám ví mình như lá cỏ

Như loài hoa tim tím dại ven đường

Không vóc dáng không sắc màu không tất cả

Em chỉ là…tất cả chỉ là thương

…sau cánh cửa ngàn năm em vẫn đợi

(Sau cánh cửa)

Với ai đó, những kẻ cơ hội, những lời yêu thương có thể là “cái khéo đầu môi, cái khôn cuối mắt” (Xuân Sách), nhưng tuyệt không phải là lối sống của những người nhân hậu. Lời yêu thương không phải là thứ nói cho qua chuyện, cho vừa lòng. Lời yêu thương có thể cần sự tinh tế, nhưng không cần màu mè. Để thương yêu nhà thơ đã tự vượt lên chính mình, thu mình lại: Tri kỷ ơi lẽ nào anh chẳng thấy /em đã mềm hơn nước, mảnh hơn mây (Tri kỷ ơi, anh có về như gió). Để thương yêu nhà thơ đã tận cùng cái đẹp: Đã trót giếng sâu, đã trót mưa nguồn (Là ngày mai đừng vội hôm nay). Để thương yêu nhà thơ đã hết mình: Em quỳ xuống xin cho em được nói /những lời yêu sâu thẳm ngỡ chôn vùi../em quỳ xuống trải lời yêu đền đáp /vạn chiếc hôn nồng xin ủ ấm đời ai (Muộn) Một đôi khi chợt mệt mỏi trên đường đời, chợt một ngày ngoái lại, nhớ cái thời “tuổi mười tám” khi mọi thứ vừa chớm dậy, Đinh Thị Thu Vân ao ước:

ước mình về lại ngày xưa

xôn xao mười tám tuổi vừa chớm yêu

(Nếu giao thừa đến chậm hơn)

Chị không viết “trở lại ngày xưa”, mà viết “về lại ngày xưa” chứng tỏ, với chị, ngày xưa thương mến lắm. Nhưng ngày xưa trong tâm tưởng của chị là ngày xưa “xôn xao mười tám…vừa chớm yêu”, chứ không phải ngày xưa vu vơ nào hết. Cụm từ xôn xao mười tám cho thấy một thời thanh xuân ở chị sức trẻ, sức yêu căng tràn như thế nào! Đấy bạn thấy rồi đó, nhà thơ chỉ muốn về lại tuổi “chớm yêu” thôi, có nghĩa là chị chỉ có một khao khát thôi. Đúng không? Nếu vậy thì nói chị là “người đàn bà yêu” cũng không có gì là quá!. Tôi nghĩ vậy.

Nhưng dù không hão huyền, dù rất thiết thực…thi sỹ cũng đã không được toại nguyện. Đã có những đỗ vỡ và nước mắt. Trên trần gian này có ai đong đếm được bao nhiêu nước mắt từ những duyên phận? Kể cả nước mắt của những loài cỏ cây, chim trời cá nước, cả những vật vô tri vô giác. Duyên phận là gì mà khi đang sống con người đã phải bẽ bàng cảm thấy “ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”, đến cả loài ve cũng “kêu sầu tháng hạ”, đến cả loài chim, như chim từ quy, cũng khắc khoải gọi bạn cạn đêm?:

Em quỳ xuống lòng em mặn đắng

Xin đừng về đôi mắt ấm ngày xưa

…anh yêu dấu không thuộc về ta nữa

Trái tim em ngày ấy lạc đâu rồi

Tình yêu lạc cuối trời như chẳng có

Đời chúng mình con nước lỡ trôi xuôi

(Ngày anh trở lại)

Những câu thơ diễn đạt sự đỗ vỡ. Ngôn từ xót xa: em quỳ xuống, mặn đắng, không thiuộc về ta nữa…, sắc thái biểu cảm đượm buồn: xin đừng về, lạc cuối trời, lỡ trôi xuôi…, tâm tư người viết có gì đó như xáo trộn, bất định: giã từ trong khi vẫn còn lưu dấu hoài niệm: mắt ấm, yêu dấu, chúng mình... Cái sự Anh yêu dấu không thuộc về ta nữa đã trải qua những ngày gắng gỏi để trì níu: Anh đừng đi, em không cách chi tìm (Nhớ). Nguyên nhân của cơ sự này không thuộc về chị. Cho dù trong tâm khảm vẫn còn những hoài niệm, thì mọi việc cũng đã trở nên xa lạ, vô cảm, muộn màng: trái tim em ngày ấy lạc đâu rồi (Ngày anh trở lại). Điều này hình như chị đã linh cảm, đã tự dặn mình: Không phải tình yêu đâu, V. ơi đừng đắm đuối (Không phải tình yêu). Tất cả cho thấy tâm hồn người viết an lành, từng trải, tiếng đập của trái tim đã qua những bồng bột, nỗi buồn tuy vô cùng nhưng không quá trĩu nặng hoang mang, không quá muộn phiền trách cứ, chỉ cay đắng thừa nhận, chỉ cố gắng chấp nhận Em thươmg xuôi mà nghe đau về ngươc, chỉ lặng lẽ thở dài, chỉ nhẫn tâm nhuốm một chút “buông” để “trôi” khi mọi sự đã khồng thể trở lại: Đời chúng mình con nước lỡ trôi xuôi (Ngày anh trở lại), Đời chúng mình đã cuối /lỡ một dịp dài /em đuối sức /trôi quanh (Đời chúng mình đã cuối)

Với người đời, đến đoạn này mọi việc coi như đã kết thúc, nhưng với thi nhân thì tất cả như mới bắt đầu. Bắt đầu đối diện, bắt đầu thừa nhận, bắt đầu vào cuộc, bắt đầu chịu đựng: em không nghĩ mình cô đơn đến vậy…/em ôm làm sao, che chắn làm sao cho ngày hôm qua đừng vỡ /em chôn tủi chôn đau vào đâu để đừng khốn khổ /đừng trắng hồn tan hoang (Em có thể làm gì khác hơn).

Với một trạng thái tâm hồn như vây, thế giới chung quanh bỗng nhiên chật hẹp, bí bức, trễ nải, mù tăm. Một thế giới bên ngoài phản chiếu thế giới vô hình bên trong tâm hồn người:

Ở một góc buồn quanh quẩn

mùa xuân lơ đãng quên về

(Tự chúc).

Ngày rất lặng, em chờ rưng rức bóng

Nén đầy tim, đầy mắt nỗi sông dài

Sao có thể, sao mù tăm đến vậy

(Vài phím chữ)

Một loạt từ thương cảm: một góc, buồn quanh quẩn, lơ đãng quên về, rất lặng, rưng rức bóng, nỗi sông dài, mù tăm…gợi lên tâm trạng hoang vắng trống trải. Từ góc này nhìn ra, ngoài kia không gian đang chuyển mùa mà dường như không hàm chứa ríu rít sự sống, mà như trở nên úa vàng, li tán:

Một chiếc lá giao mùa đang rụng đấy

Gió vô tâm đùa xót nỗi hao gầy

Hồn tôi úa võ vàng đêm giá rét

Thôi cũng đành như lá phút rời cây

(Giao mùa)

Cánh cửa quen thuộc hôm nào giờ đã trở nên hoang vu lạnh giá, bóng dáng người cũ giờ chỉ còn là “nhân ảnh” quá vãng, như thể: Trăm năm cửa khép hờ mưa nắng /Mãi chẳng ai về qua gọi cho (Tô Thùy Yên – Nỗi đợi). Khung cảnh quen thuộc mà toát lên nỗi bơ vơ, dù đã quen cay đắng đã quen chìm nổi /đã quen rồi lạnh lẽo nhân gian (Giếng cạn):

Không ai đợi tôi về sau cánh cửa

Không nồng nàn không ấm áp bao dung

(Một nửa đường đang khuất)

Ai đã đến và ai từng quên nhớ

Cánh cửa màu tro bàng bạc nỗi bơ vơ

(Bên thềm hoa dại trắng)

“Bơ vơ”, “cô đơn”, “một mình”... người ngoài cuộc chẳng phải bận tâm nhiều, nhưng những thứ cũ rích này không đơn giản vượt qua như vẫn tưởng, một khi là người trong cuộc: Em nhớ anh lơ đãng đã vô chừng /Xe quên khóa, cửa quên cài, quả vườn nhà chín ửng, bao lần quên chẳng hái (Ngày rất lẻ). Đấy là nỗi nhớ tê dại của người đang yêu. Tâm trạng lơ đãng, chông chênh ấy sẽ ám ảnh, đeo bám mọi nơi, mọi lúc: em không nghĩ mình cô đơn đến vậy /trong vời vợi chia lìa (Vài phím chữ), cả những khi, (và nhất là những khi) cầm bút: câu thơ em viết buồn xa xót buồn /đã vời vợi một thời thương /đã xô dạt mất trời sương khói rồi (Hồn em theo nén nhang rời sẽ đau), thêm một lời …sẽ vỡ nát những câu thơ /sẽ vỡ nát những gì em bám níu (Hạnh phúc sẽ chẳng nguyên lành). Và vô vọng buông trôi không phải là điều khó hiểu: em đã quen sống cùng vô vọng (Xa), em đã trót phía bên này bóng tối cuộn cô đơn (Phía bên này bóng tối). Cả những tuyệt vọng nữa: tôi ra đi, trái tim ngàn vết cứa /và linh hồn trơ trọi hắt hiu đau (Xin đắng chát dừng chân bên góc mộ).

Và thời gian vẫn là nỗi ám ảnh thường đêm, nỗi ám ảnh về đêm, những lúc đơn chiếc giữa đêm dài khuya khoắt (Gió bụi chông chênh), những khi gió rạc lòng đêm giá rét (Xa biệt phía vai người)

Mãi còn nỗi tàn khuya

Mãi còn sẫm đen mảnh tim bất lực

Mãi còn

Mãi còn

Phía chân trời bạc trắng những câu thơ

(Mãi còn nỗi tàn khuya)

Không còn em nữa ngày mai

Mây giăng mưa phủ, đêm đầy nỗi đêm

Em làm sao để ru yên

Thì thôi anh cố mà quên lỡ làng

(Hồn em theo nén nhang rồi sẽ đau)

Thơ Đinh Thị Thu Vân là vậy, chan chứa nỗi niềm, thảng thốt, khắc khoải giữa vây bủa của cô đơn…và rất ít niềm vui, nụ cười, không hiện diện mặt trời của một ngày nắng đẹp, làn sương của một sáng mát lành, bầu trời sao của một đêm lãng mạn, hoa lá của một khu vườn xanh tốt… Nhưng đâu đây giữa tiếng thơ buồn vẫn le lói, như thể giấu kín đâu đó những “đốm lửa” hy vọng, những đốm lửa của một tâm hồn vốn rất tình tứ và chưa bao giờ hết lãng mạn, có từ thuở xôn xao mười tám, cho đến khi trưởng thành: tôi như sống nửa đời đêm giấu lửa (Một nửa đường đang khuất):

Rồi sẽ có một người, sẽ có

Giữ thay em mười tám tuổi êm đềm

Cả sắc áo, chiếc nơ nào nho nhỏ

Có một người rồi sẽ giữ giùm em

(Em mười tám tuổi)

Thượng đế chưa bao giờ tước đi của bất cứ ai quyền hy vọng. Qua tất cả những xót xa kia, trong thẳm sâu tâm hồn chị dường như vẫn còn giấu kín một “thế giới lãng mạn” như những “đốm lửa” còn lại trong tro ấm:

Sau giấc ngủ đau ngày vẫn non màu lá

Hương vẫn hương, gió vẫn gió vô cùng

(Sau những giấc mơ buồn)

Ôi hạnh phúc dẫu phía nào xa thẳm

Cuối con đường tìm kiếm, vẫn còn anh

(Xao xác lá vàng)

Chắc chắn những “ đốm lửa” ấm nóng kia đủ sức để hồi sinh sự sống từ tro tàn, như một tất yếu từ sự cam chịu của tiền kiếp: tuyệt vọng này /muôn kiếp trước tôi vay (Có thể buồn hơn không), hình như từ kiếp nào /tôi là khói, là rong là những gì xác xơ hơn tàn tro hơn vụn lá (Xua nhau về hư vô)…,đến một lựa chọn rắn rỏi cần thiết: ngày tháng buồn thăm thẳm ấy em quên (Còn mỗi chiều này…), đến một triết lý sống tích cực, sau rất nhiều cay đắng:

Em đứng dậy trên hoang tàn đổ nát

…em không chết sau ngày tím tái

(Đợi)

Thơ Đinh Thị Thu Vân là thơ biểu hiện tâm trạng, không phải là thơ “miêu tả hiện thực”, không phải là những ghi chép theo kiểu báo chí, không phải là thơ chính luận. Chị né bớt miêu tả để nhanh chóng đi sâu vào biểu hiện, biểu hiện con người tình cảm của chị qua chủ đề tình yêu. Nhân vật trữ tình là anh và em. Tâm sự có thể là của riêng chị, cũng có thể có cả của “người đời” mà chị phân thân. Chủ thể trữ tình là người đang dắt dẫn câu chuyện buồn của nhân thế, câu chuyện miên man về sự trớ trêu của duyên phận, một “đề tài” muôn thuở đẫm nước mắt của nhân loại. Ngoài những chỗ ngôn từ được đẩy đến độ “căng” ở những “nốt” cao nhất, còn lại vẫn là giọng điệu trữ tình mềm mại, thương cảm, hệt như tiếng kêu khan trong đêm của con chim lẻ bạn. Nếu đó là ưu điểm, thì thơ chị rất dễ lan tỏa, dễ làm xúc động lòng người, dễ để lại ấn tượng trong tiếp nhận của người đọc. Nhưng nếu đó là nhược điểm thì thơ ấy đôi khi với cái cảm giác quá mềm đến mức tưởng như ủy mi kia rất dễ sa vào lụy tình. Tôi nghĩ, bên cạnh tiếng đàn bầu và khúc vọng cổ da diết kia, cần một giai điệu trữ tình tích cực, một sự khỏe khắn của ngôn từ, một sự xa rộng của liên tưởng, một sự lấp lánh của trí tuệ…mới ngõ hầu đáp ứng được người đọc thơ hôm nay. Tôi muốn tìm trong thơ Đinh Thị Thu Vân nắng gió của miệt vườn Nam bộ, hương thơm (hương vẫn hương, gió vẫn gió vô cùng) của muôn loài cây trái, cái ngọt ngào của đờn ca tài tử, cái âm vang dài rộng của những câu hò trên sông nước miền Tây…Đinh Thị Thu Vân đã có sẵn năng lực trữ tình dồi dào, việc “chuyển” những chất liệu “nền” kia vào thơ, chắc không phải là khó đối với chị.

Sinh năm 1955 (theo lời tự thuật của chị), nghĩa là khi hòa bình lập lại trên cả nước, chị vừa tròn hai mươi tuổi, lứa tuổi rất đẹp. Đọc thơ chị, cảm đoán trước đó chị đã đọc nhiều thơ ca đô thị Sài Gòn, chắc chị cũng đọc nhiều thơ ca của cả nước sau ngày thống nhất. Vì thế, tin rằng chị sẽ còn có nhiều đóng góp cho thơ ca Việt.

Tháng 4 năm 2020
Nguồn: http://www.lethieunhon.vn/

Mời đọc:

THI NHÂN, NỖI BUỒN & PHẬN CỎ.

TÌNH YÊU MANG PHẬN CỎ VÀ NHỮNG KHẮC KHOẢI TẬN CÙNG XANH

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm