TIN TỨC

Em đi tát nước… Tản văn của Nguyễn Linh Giang

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1355 lượt xem

Tát nước là công việc quen thuộc của người làm nông ngày trước. Tát nước để chống hạn. Nghề làm nông trước đây, cứ đến vụ lúa tháng 6 là cánh đồng thiếu nước, nhà nào cũng lo khơi thông mương nước, rồi dùng nát, gàu, xe đạp nước để ngày đêm tát nước cho lúa. Làm nông rất vất vả, nhưng rồi làm nghề nào yêu nghề đó. Mùa nắng hạn ở miền Trung rất khắc nghiệt, trên cánh đồng lúc nào cũng có nhiều người tát nước, cứu lúa. Tát nước thường tập trung vào tầm chiều mát hay sáng sớm. Tuy vậy, tát nước đông vui nhất là vào những đêm trăng, tiếng nước chảy hòa cùng tiếng cười vui rộn ràng, xen lẫn giọng hò khoan dìu dặt. “Lúa khô, nước cạn ai ơi/ Rủ nhau tát nước, chờ trời còn lâu”; “Cô kia tát nước một mình/ Cho anh tát với chung tình làm đôi” (Ca dao). Và câu thơ quen thuộc, gần gũi như một lời ca dao: “Hỡi cô tát nước bên đàng/ Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?” (thơ Bàng Bá Lân).

Nhà văn Nguyễn Linh Giang

Ở quê tôi, tát nước một người thì dùng chiếc nát (miền Bắc gọi là gàu sòng). Miệng nát tựa như nửa hình bầu dục được cạp tre. Thân nát đan bằng tre (sau này được làm bằng tôn hoặc nhôm cho nhẹ và dễ làm), dài gần một mét và thuôn thuôn nhỏ dần về phía đáy. Cuối đáy là một cái chuôi có cán dài dùng để cầm tát nước. Nếu tát nước trong một thời gian dài thì cắm 3 đoạn tre già xuống ba góc ao hay mương nước, một đầu chụm lại buộc cho chắc thành đỉnh tam giác; rồi lấy dây thừng to ròng từ đỉnh ấy xuống đoạn giữa cán của nát, sao cho cân bằng “lực”. Khi tát nước, một tay nắm cuối chuôi cán của nát, một tay nắm đoạn giữa cán, gần chỗ buộc dây thừng, vục từng gàu nước, đẩy qua bờ ruộng. Nếu tát ít thì không cần làm giá (cột chụm ba đoạn tre già) mà chỉ cần đứng chân vững chãi, cầm nát tát thẳng từ mương lên ruộng. Tát nước kiểu này đòi hỏi sức lực, đôi tay khỏe mạnh của đàn ông, con trai.

Tát nước thông dụng nhất là dùng gàu (miền Bắc gọi là gàu dai). Gàu đan bằng tre, có hình dáng hao hao đầu cá tràu (cá lóc, cá quả) mà đáy gàu là miệng cá. Vành gàu là thanh tre, bản to hơn vành nong, hai bên hông và đáy gàu được nẹp bằng khung tre, được dùi lỗ nức mây vào thân gàu. Dùng phân bò trộn với dầu rái trét cho kín, chống chảy nước và mối mọt. Dây gàu thường làm bằng lạt tre, bỏ ruột giữ cật, chuốt nhẵn, xoắn lại thành dây. Một chiếc gàu có 4 dây, 2 dây miệng và 2 dây đáy, cột ở hai phía đối xứng nhau. Chặt một lóng hóp to vừa lòng nắm tay, dài bằng chiều ngang bàn tay, xỏ 4 đầu dây vào làm tay gàu, cầm tát cho êm.

Bài được rút trong tập "Sông vẫn chảy đời sông" vừa xuất bản năm 2023

Tát nước bằng gàu phải có 2 người, thường là một đôi nam nữ, ở hai phía đối diện nhau, thế đứng mỗi người hơi nghiêng về phía sau. Mỗi người cầm một dây miệng và một dây đáy. Dây miệng ngắn hơn dây đáy một cẳng tay. Khi tát nước bằng gàu, các động tác tay phối hợp với chân, lưng, bụng nhịp nhàng và đòi hỏi hai người phải ăn khớp với nhau. Động tác tát nước của cặp đôi nam nữ rất gợi cảm, tình tứ. Họ tát nước như múa, là dùng đà chứ không dùng sức, dây lúc căng lúc chùng theo nhịp của đôi tay. Tát nước bằng gàu thường là đôi nam nữ, nhất là thanh niên. Người ta háo hức đi tát nước, vừa tát vừa trò chuyện, vừa hát đối giao duyên. “Hôm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen/ Em được thì cho anh xin/ Hay là em để làm tin trong nhà?” (Ca dao). Có những cặp đôi tát nước không biết mệt, ấy là khi họ phối hợp nhịp nhàng, các động tác thực hiện một cách nhuần nhuyễn, tát nước như nhịp múa. Những đôi nam nữ có tình ý với nhau thì tát nước là cơ hội trời cho. Hai đôi tay điều khiển 4 dây và chiếc gàu lượn vòng uyển chuyển, nước bung lên trắng xóa như hoa. Thường qua mùa tát nước, họ nên vợ nên chồng. Hình ảnh người con gái, người yêu, người vợ ở nông thôn đi tát nước toát lên vẻ đẹp hồn hậu của người phụ nữ nông dân, là hình ảnh neo giữ tình cảm đối với những chàng trai đi chinh chiến phương xa theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc: “Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dãi nắng dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao” (thơ Á Nam Trần Tuấn Khải).

Ở quê tôi còn tát nước bằng xe đạp nước. Xe được làm hoàn toàn bằng gỗ. Cấu tạo của xe bao gồm ba bộ phận chính: thùng xe (máng dẫn nước); hệ thống lá quạt đẩy nước; hệ thống trục quay làm nhiệm vụ kéo và đẩy. Ngoài ra, khi vận hành trên ruộng còn có thêm bốn trụ tre chống, một thanh tre để làm đòn ngồi và một thanh tre khác để làm tay vịn. Xe đạp nước dùng để đưa nước từ thấp lên cao, chống hạn rất hiệu quả ở vùng đồng bằng và trung du Quảng Trị. Xe đạp nước hoạt động được do 2 người cùng phối hợp đạp nước. Và cũng từ những đợt chống hạn này, bao mối tình đã nảy nở, nên duyên. Có những cặp đôi “say” nhau, cùng đạp nước từ tối đến khuya, có khi nước đầy tràn ra ruộng lúc nào không hay…

Tôi lớn lên, vào những năm sau 1975, ruộng đồng vào mùa khô vẫn phải chống hạn bằng xe đạp nước. Có lần, được ngồi xe đạp nước đêm trăng cùng với cô bạn gái tôi mới biết giọt mồ hôi trên sợi tóc mai cùa cô thôn nữ vừa nghe mằn mặn vừa nồng ngầy ngậy, khó tả. Qua bao mùa trăng, tôi vẫn còn mơ được đi tát nước: “Hôm qua trăng sáng tờ mờ/ Em đi tát nước tình cờ gặp anh” (Ca dao).

Nguyễn Linh Giang

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm