TIN TỨC

Huệ Triệu và Đoản khúc trao mùa

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-08-20 18:00:31
mail facebook google pos stwis
1728 lượt xem

VC.TPHCM: Nhà thơ Huệ Triệu, Ủy viên Ban Chấp hành, Trưởng ban Nhà văn nữ HNV TP.HCM, ủy viên Ban Nhà văn nữ HNV Việt Nam, là cây bút nữ không còn xa lạ với bạn đọc yêu thơ. Được biết, chị vừa vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú. Nhân sự kiện vui này, chúng tôi xin chúc mừng nhà thơ Huệ Triệu, đồng thời giới thiệu một trong số các bài viết về chị đã đăng trên báo Người Lao động.


BÙI VIỆT QUÝ
 

Huệ Triệu qua tập thơ này mới mẻ và góc cạnh hơn: mềm mại, nữ tính mà mạnh mẽ và sâu lắng

Đọc tập thơ mới xuất bản của Huệ Triệu, "Đoản khúc trao mùa", NXB Hội Nhà văn, 2018, những người yêu thơ chị đều thấy vui. Một tập thơ vẫn giữ được chất riêng của Huệ Triệu, lại có nhiều tìm tòi sáng tạo mới. Vẫn là Huệ Triệu dịu dàng, tinh tế như ba tập thơ trước, song "Đoản khúc trao mùa" cho thấy một Huệ Triệu mới mẻ, táo bạo và góc cạnh hơn. Vẫn đắm đuối si mê, vẫn tự tình đắng đót, nhận chân nỗi buồn, gom hết, nhận hết cho mình để sống và cảm nhận cùng những xúc cảm đó, với ngôn ngữ thơ mềm mại, nữ tính mà vẫn mạnh mẽ và sâu lắng…

Đó có thể là cảm giác mong manh, bởi ngọn cỏ trên tay là dịu dàng, cành hoa vô tư sắc màu, ánh trăng mát rượi miền huyễn ảo và tình yêu cũng diệu vợi:

Tình yêu trên tay em, em nâng/ Cuối cùng/ Chỉ còn lại một giọt nước mắt (Mong manh).

Gặp người, trắc trở nông sâu/ Xa người, tóc nửa bờ lau ngậm ngùi (Hững hờ một ánh mắt thôi).

Phải đi qua, từng trải, chiêm nghiệm nhiều mới có thể ngẫm ngợi những điều gũi gần mà không phải ai cũng nhận ra:

Nhạt miệng là sắp ốm/ Nhạt nắng trời sắp mưa/ Nhạt sóng thì biển lặng/ Nhạt hương côi cút mùa/ Chỉ ly cà phê đắng/ Nhạt đường lại đậm hương/ Chỉ một ngày anh vắng/ Đậm trong em nỗi buồn (Ngẫu cảm)

Người đàn bà làm thơ nói những điều rất thật: Một mình em ở giữa/ Giấu lòng đâu cũng thừa (Lúc này). Mùa hãy giữ cho em, mùa hãy giữ/ Chút giận hờn lỡ khuyết tự ngày xưa (Viết ở phố Nguyễn Du). Nhẹ như hơi thở mà sao nghe nhoi nhói, hay bởi ai cũng đã từng có, từng trải qua những man mác, hắt hiu khi nhớ lại một thời tuổi trẻ…

Chất tự sự vẫn bàng bạc xuyên suốt tập thơ, song đề tài đã rộng hơn, không gian thơ đã rộng hơn. Người thơ không chỉ nói về tình yêu lứa đôi, gia đình, bè bạn mà còn đi vào những góc khuất của cuộc sống, những đúc kết, cảm nhận từ cuộc đời. Chất mô phạm của một cô giáo nổi tiếng dạy văn ở ngôi trường nổi tiếng bậc nhất TP.HCM (Lê Hồng Phong) cũng làm cho ngôn ngữ thơ khúc chiết, bên cạnh cái nhìn tinh tế và tư duy thơ sắc sảo của một nhà thơ đắm mình vào cuộc sống.

Đó là sen được bóc tách, nâng niu: Ủ vào lòng giọt đắng/ Mở trắng trong ngọt ngào/ Khi hạt xanh biết khóc/ Mùa đã mùa xôn xao (Sen). Đó là màu tím của nhớ mong, ngóng đợi thường thấy trong thi ca nhạc họa nhưng sắc tím trong thơ Huệ Triệu ở lại lâu hơn bởi câu thơ níu kéo:

Ngày qua rồi ngày lại/ Màu tím nhạt đi rồi/ Cuống hoa giờ đã rụi/ Thương em, màu không rơi (Hoa súng)

Huệ Triệu cho người đọc những bất ngờ thú vị từ những ngẫm ngợi thật chín trong tư duy và bật ra những tứ thơ đẹp. "Đoản khúc giao mùa", như tên gọi, là những khúc ngắn, những đoạn thơ thoạt nghe nhẹ nhàng song sức gợi và sức tỏa khá đầy đặn. Ngôn ngữ thơ và hình ảnh đã có những khác biệt so với những tập thơ trước, những tìm tòi, làm mới thơ đã được bày biện. Bên cạnh một màu bảng lảng Khói sương lấm áo nâu sồng/ Tiếng chuông đi ngược gió sông gọi đò (Chùa quê) với lục bát cổ điển, đã có chùm ba gieo vần bằng thú vị: Đang bề bộn chữ lạc trôi mất vần/ Lặng nghe đáy nghĩa mơ hồ tiếng ngân/ Phải tình cả gió. Cho mình phân thân (Nhịp ba).

Huệ Triệu cũng đã tự sự về nghề chữ nghĩa nhọc nhằn, với những cày xới, mải miết gieo, cười nụ cười phẳng phiu mà ai hay trượt ngã. Người làm thơ/ Gặt mùa mình trên từng khuôn ruộng chữ (Gặt mùa trên ruộng chữ). Đó là lao tâm khổ tứ từ hoài thai đến sinh thành, từ gieo đến gặt, đều trong dáng vẻ cô đơn của người sáng tạo, nhưng đó là sự lựa chọn của người cầm bút và cả hạnh phúc khi gặt về những vàng tươi.

Thơ không thể đứng bên lề cuộc sống. Nhà thơ thấy rõ những thói đời, thấu hiểu lẽ đời, những khóc cười, thực giả phô phang…, để thốt lên cay đắng: Có đôi khi ta chợt thấy mình thảm hại/ Khi lặng nhìn bao sự thảm hại khác ở trên đời (Đôi khi). Nhưng với trái tim của người thơ, sự bao dung vẫn là chủ đạo. Hiểu đời và thấu đời để thương yêu đời hơn, nhân hậu với nhau hơn để sống: Được thua cái lẽ ở đời/ Được mà chua xót cho người là thua… Cái ngỡ được lại thua đau/ Cái này tưởng mất ngày sau lại còn (Được thua)…

Từ sự thấu cảm đó, những câu thơ của Huệ Triệu giữ người đọc ở lại lâu hơn với "Đoản khúc trao mùa".

Nguồn: Người Lao động.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm