TIN TỨC

Nguyễn Văn Hòa cần mẫn rút ruột nhả tơ trên cánh đồng chữ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-12-19 16:25:04
mail facebook google pos stwis
3925 lượt xem

Nhà thơ HOÀNG XUÂN HỌA


Nhà văn Nguyễn Văn Hòa

Khi xuất bản tập tiểu luận đầu tiên của Nguyễn Văn Hòa. Tập: Tình Thơ Bạn Thơ, NXB Hội Nhà văn, năm 2020; Hai vợ chồng nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy - Lý Phương Liên đã nhận xét về Nguyễn Văn Hòa như sau: “Nhà văn, Thạc sĩ Nguyễn Văn Hòa (Hòa Phú Yên) về những đóng góp tự nguyện không vụ lợi, say mê, kiên trì, liên tục và tài năng trong công việc biên tập đọc và chọn, thẩm định phê bình tác phẩm và tác giả tham gia dự án sách Thơ Bạn Thơ/ Văn Bạn Văn do VANDANBNN (Văn Đàn Nguyễn Nguyên Bảy) chủ trương. Mười năm, từ 2011 - 2020, với 20 đầu sách khổ 20x20, mỗi tập dày 300 trang gồm: 10 tập Thơ Bạn Thơ, 2 tập Văn Bạn Văn, 4 tập Chém Gió Muôn Màu, 3 tập Vườn Năm Nhà, 01 tập Tình Thơ Bạn Thơ đã được xuất bản là bằng chứng về sức làm việc, lực yêu văn chương của Hòa Phú Yên, trong cuộc chơi văn chương sang trọng, tâm hồn (ấy) xứng đáng được tôn trọng và ngưỡng mộ...”; “Linh cảm mách bảo tôi, em là con chim lạ...”.

Còn tôi, mỗi khi được Nguyễn Văn Hòa tặng sách, đọc xong những bài tiểu luận - phê bình của anh, tôi muốn viết đôi điều về anh, nhưng những lời “có cánh” trên của vợ chồng anh Bảy chị Liên khiến tôi rụt rè, e ngại. Phần nữa còn nhiều thứ cuốn hút do ham chơi nên hôm nay mới dám mạo muội gõ bàn phím, sau khi đọc tập Nguyễn Nguyên Bảy - Lý Phương Liên: Cặp vợ chồng thi sĩ đặc biệt (NXB Hội Nhà văn, quý 1, 2023).

Trong tay tôi đang có 4 tác phẩm tiểu luận - phê bình đã xuất bản. Gần đây, Nguyễn Văn Hòa in thêm cuốn tản văn Bình yên từ phía quê nhà, cuốn nào cũng chứa nhiều dung lượng văn chương đáng đọc cả. Không những anh viết về các gương mặt thơ, văn nổi tiếng mà anh còn viết cả những tác giả văn chương ở ẩn đâu đó trên đất nước ta bằng sự trân trọng mà những câu văn, chùm thơ, bài thơ, hay một khổ thơ, câu thơ tài hoa của họ rung lắc tâm hồn mình như khi anh bình bài “Chân Hương” của nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy:

 “Thơ Nguyễn Nguyên Bảy là thơ đa nghĩa, mang tính biểu tượng, ẩn chứa những vấn đề mang tính nhân sinh, nhân bản, chạm đến chiều sâu văn hóa. Và trong số hàng nghìn bài thơ của ông mà tôi đã đọc, nếu chọn bài thơ hay thì có nhiều. Nhưng giả sử chọn một trong nhưng bài thơ hay nhất của ông, theo cá nhân tôi, bài "Chân hương" sẽ là 1 trong những ưu tiên hàng đầu:

- Cháy rồi, cháy hết phần thơm
Chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi
Rồi màu phẩm nhuộm phai đi
Dẫu chẳng còn gì vẫn đứng chân hương
”.

 “Đọc ngẫm. Đọc và ngẫm... tôi đọc đi đọc lại nhiều lần bài Chân Hương (...). Càng đọc càng thấy hay và thầm cảm phục tài dùng chữ của ông...” (Về bài thơ “Chân Hương” của Nguyễn Nguyên Bảy, trang 60, sách Nguyễn Nguyên Bảy - Lý Phương Liên: Cặp vợ chồng thi sĩ đặc biệt ). Và ở một lời bình khác: “Ngôn ngữ thơ Nguyễn Nguyên Bảy là thứ ngôn ngữ có ma lực. Bởi nhiều từ ngữ ông dùng với những giá trị và ngữ nghĩa riêng:

 - Trăng như da ngực thanh tân

Hỏi trăng, trăng đã một lần ai hôn...

 - Cỏ lau cười lắt lay đầu

Sông lăn tăn sóng thoa bầu vú trăng...”

(Trang 40, sách Tình Thơ Bạn Thơ).

***

Với Lý Phương Liên, Nguyễn Văn Hòa rất tâm đắc với bài “Nghĩ về Thúy Kiều”. Hầu như tất cả những bài viết về thơ Lý Phương Liên anh đều ít nhiều nhắc tới “Nghĩ về Thúy Kiều”. Vì đó là bài thơ gây nên tai nạn nghề nghiệp cho vợ chồng Lý Phương Liên - Nguyễn Nguyên Bảy.

Nguyễn Văn Hòa là những thế hệ sinh sau 1975, một thế hệ được hưởng nhiều cởi mở trong đời sống sáng tác văn học - nghệ thuật nên anh thấy xót xa thay cho những bậc cha chú bị hạn chế không gian sáng tác, không được tự do tung bay suy nghĩ, bay bổng tư duy sáng tạo. Khi Lý Phương Liên vừa “bay bổng”:

- “Hai trăm năm và chảy dài vô hạn
Thuý Kiều ơi, nàng sống tháng năm dài
Trái đất chúng mình cho đến hôm nay
Vẫn còn những cuộc đời như nàng chìm nổi
Thời gian còn nửa ngày là đêm tối
Còn đồng tiền đổi trắng thay đen
Còn sắc tài bạc mệnh với hờn ghen
Còn những Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến...

Thì bị Stop !

“... Năm 1970 mà chị đã có dự cảm như vậy thì đáng khâm phục quá. Chỉ có điều đang tiếc rằng, bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử mà nó khó có thể sống bởi yêu cầu nghiệt ngã của thời đại, với những dàng buộc về mặt tư tưởng, đường lối văn hóa nghệ thuật của Đảng. Ở thời kỳ này, văn học phải có nhiệm vụ cổ vũ, động viên, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng...”. “Nhưng cũng chính từ bài thơ “Trò chuyện với Thúy Kiều” mà nhà thơ và gia đình đã vướng vào bao hệ lụy. Để rồi nữ sĩ tài hoa Lý Phương Liên “đi không ai biết về không ai hay” suốt 40 qua...”. Cũng như chuyên mục “Đời sống văn hóa” báo Công An Nhân Dân Online, Thứ ba, 20/11/2012, nhà báo Quỳnh Nga cũng viết: “Như một ngôi sao băng, Lý Phương Liên từng vụt sáng trên bầu trời thi ca Việt rồi phút chốc mất hút. 40 năm mang nặng lời nguyền vĩnh biệt thơ. 40 năm xa Hà Nội, ẩn dật giữa TP. HCM, mặc cho bao ngơ ngác, tìm kiếm vô vọng của không ít người hâm mộ. 40 năm "để tang" thơ, bà trở lại, lặng lẽ "tháo khăn tang", rũ bỏ lời nguyền, cất lên vần "Ca bình minh" quen thuộc thuở nào”.

***

Về hai nhà thơ nữ khác: Nguyễn Thị Hồng Ngát và Đàm Thị Lam Luyến, Nguyễn Văn Hòa với những lời bình nhiều cảm xúc, nhiều năng lượng do anh cảm nhận sâu sắc được từ thơ của họ. Chỉ hơi tiếc là anh chưa chạm đến bài “Nguyệt Cô Hoá Cáo” của Nguyễn Thị Hồng Ngát thì phí hoài quá. Đoàn Thị Lam Luyến thì anh không bình bài “Châm Khói” cũng là một phí hoài khác!

Nguyệt Cô Hoá Cáo” là lời tuyên chiến với thói ích kỉ, thói xơ cứng tâm hồn, thói chết “lâm sàng” của của đám dàn ông ích kỉ; đám người chuyên gây khổ đau cho phụ nữ. Tình cảm yêu thương của mỗi người trong gia đình chính là nền tảng để chúng ta sinh tồn và phát triển. Do đó, để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, chúng ta cần sống chí tình chí nghĩa, thủy chung trước sau như một và luôn mở lòng vị tha và loại bỏ tính ích kỉ ra khỏi lối sống tầm thường. Tính ích kỉ chỉ cho thấy sự vô cảm và thờ ơ của những người chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mà không quan tâm đến quyền lợi và nỗi đau của người khác làm cho Nguyệt Cô phải đau đớn, phải vùng lên tuyên chiến với thói đời đen bạc, nhỏ nhen:

-“Thôi đừng khóc nữa Nguyệt Cô!
Tìm đâu thấy ngọc bây giờ mà mong
Giá em đừng sống hết lòng
Giá đừng yêu, chả mơ mòng làm chi
Giá đừng khao khát mỗi khi
Trăng lên soi bóng rừng khuya sum vầy
Thì đâu ngọc mất trắng tay
Thì đâu đến nỗi đắng cay một mình
Trở về kiếp cáo buồn tênh
Tiếng kêu vọng khắp rừng xanh đến giờ
Giật mình vì chuyện người xưa
Tiếng kêu như tỉnh như mơ giữa đời
Ước ao được sống kiếp người
Người lừa em - đắng một đời giao hoan
Xé lòng nghe tiếng em than
Tiếng kêu nhân thế vẫn vang vọng về….”

Tôi tin, “Nguyệt Cô Hoá Cáo” của Hồng Ngát sẽ sống mãi với thời gian hơn là những gì chỉ là thời sự, là mì ăn liền...

Châm Khói” của Đoàn Thị Lam Luyến cũng là bài thơ về thân phận với nhiều day dứt, giằn giỗi trước sự đời đen bạc:

-“Ngoài bốn chục chưa khỏi điều non nớt
Cả tin nghe, cả tin nói, cả tin cười
Que diêm mảnh chực châm bờ rạ ướt
Khói lửa nào đắng đót trái tim côi
.”.

Hà Nội, tháng 12 năm 2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm