TIN TỨC

Mặc khải “tượng mồ” | Lê Xuân Lâm

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-11-02 08:59:04
mail facebook google pos stwis
3994 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM

Đây là bài thơ “tượng mồ” của nhà thơ Văn Công Hùng:
 

tượng mồ
 

Chiều như lửa đốt lòng nhau

tượng mồ run rẩy về đâu kiếp người

 

đã đành hồn sẽ rong chơi

đã đành xác đã tơi bời gió sương

mà còn đây nỗi vấn vương

mà còn đây nhớ với thương một đời

nỗi đau khóc chẳng thành lời

lặn vào thớ gỗ ru người – người ơi

hoang sơ

chiều rót đầy vai

ché và chiêng

và đầy vơi rượu cần

nằm đây một nắm xương tàn

đứng đây tượng hát một ngàn lời yêu

chiều ơi chiều

chiều ơi chiều

cho tôi cùng hát tình yêu một đời

Chư Đrăng, 1990.

Trước hãy nói ngay, là bài thơ “tượng mồ” mà tôi dẫn ra đây, được rút từ trong tập thơ “bến đợi” của Văn Công Hùng, do Hội VHNT Gia Lai xuất bản năm 1992, trang 24 - 25...

Nhưng có lẽ, theo thiển nghĩ của tôi, không phải “rút từ trong tập thơ“bến đợi”, mà phải hiểu và nói rằng, “tượng mồ” là một bài thơ nhỏ, được rút ra từ bài thơ lớn:“bến đợi, mới đúng. Ai quan tâm đến thẩm định ý kiến này của tôi, xin hãy tìm đọc “bến đợi”. Phần mình, tôi muốn để một dịp khác sẽ tiếp tục quay lại tập thơ đầu tiên này của Văn Công Hùng(1). Ở đây, chỉ xin lưu ý, rằng “tượng mồ” được tôi dẫn trích nguyên bản, từ chữ viết hoa, không viết hoa, cách dòng, viết nghiêng… như trong sách. Vì “trình bày và sửa bản in” sách này là chính tác giả. Và bởi vì hình thức trình bày tập thơ, chữ viết của thơ in trong sách… thảy đều mang thông điệp nội dung ngữ nghĩa của tập thơ...

Chớ có để sót, chớ có bỏ qua! Vậy mà...

1. Mặc khải!...

Và xin các bạn yêu thơ hãy đọc “tượng mồ”đi …

Với tôi, từ lâu, ngay lần đầu đọc xong “tượng mồ”, tôi đã kêu lên, “Đúng là Mặc khải“tượng mồ” !” Nay ở đây, tôi vẫn chỉ biết kêu lên như thế!

Nhưng kêu thế thì chắc chỉ TƯỢNG MỒ mới hiểu tôi kêu gì về CÂY “tượng  mồ” mà nhà thơ đã dựng lên trong cái buổi xế chiều, giữa một mùa LỄ HỘI BỎ MẢ (đồng bào gọi là “pơ thi”) ở “Chư Đrăng…” năm ấy… mà thôi!...

Cho nên…, là tôi mong muốn để những ai đọc bài thơ này, cũng sẽ cùng mặc khải với tôi, nên tôi thấy cần phải nói đôi chút về TƯỢNG MỒ và về cả LỄ HỘI BỎ MẢ kia nữa. Vì đó chính là từ một hiện thực thơ (lễ hội bỏ mả), mà đối tượng thơ (tượng mồ) đã được điển hình hóa thành một hình tượng thơ (“tượng mồ”), của nhà thơ (Văn Công Hùng), bằng bài thơ này. Vì nếu không, tôi dám chắc phần đông người đọc bài thơ này sẽ khó có thể cảm nhận đủ được “tượng mồ” là một bài thơ hay đến như thế nào! Đơn giản là bởi TƯỢNG MỒLỄ HỘI BỎ MẢ chính là một đặc sản đặc trưng nhất, tiêu biểu nhất… cho văn hóa của đồng bào các dân tộc ít người Tây Nguyên (từ đây, tôi xin gọi là người Thượng); nhưng nó không phải là một phổ thông, để ai cũng dễ dàng cảm thụ và thức nhận ngay được.

…Vâng, là tôi muốn nói, ai đã lên Tây Nguyên, đúng “mùa con ong đi lấy mật”, nhất là thời cách đây dăm ba chục năm trở về trước, hay ít nhất cũng là vào thời điểm nhà thơ viết bài thơ này, thì dù nghỉ đêm tại thị trấn, thị xã, thành phố... xa làng bản của đồng bào, nhưng đêm đêm cũng vẫn có thể nghe thấy tiếng cồng chiêng, từ bốn phía rừng vọng đến. Càng về khuya tiếng chiêng nghe càng sâu lắng… rồi lịm dần như khúc cuối một bản bi - tình bolero…

Đó chính là tiếng cồng chiêng từ LỄ HỘI BỎ MẢ, thường diễn ra trong ngót ba tháng trời, của người Thượng. Càng về những đêm cuối mùa khô ấy, tiếng cồng chiêng càng dày đặc hơn, càng gấp gáp ngân vang… sâu… xa hơn.

Bởi đó là khi LỄ BỎ MẢ đã rộ mùa HỘI lớn.

Nhưng bỏ mả là gì? Hiểu đơn giản thì bỏ mả tức là bỏ ma, là không nuôi ma - là người chết, là không giữ mả - của người đã chết chôn dưới mồ nữa. LỄ BỎ MẢ là một truyền thống văn hóa xưa, vẫn tồn tại đến nay, trên nền tảng của một quan niệm nhân sinh của người Thượng, về sự sống và cái chết.

Theo người Thượng, ai sống cũng đều do bởi có xác và hồn. Nhưng khi người ta chết, là chỉ xác chết đã và sẽ... dần dần tan mất trong đất, nhưng còn hồn thì vẫn sống, không bao giờ mất (không chết). Khi đã chết, người chết hóa thành ma, gọi là Atâu; có hồn, gọi là hồn ma. Và ma vẫn sống quanh quẫn nơi mộ phần. Vì vậy, sau khi chôn cất người đã chết, người nhà thường dựng một ngôi nhà che mưa nắng cho phần mộ, gọi là nhà mồ, để ma ăn ở. Hằng ngày, người thân của ma vẫn đem cơm nước cho ma ăn uống (một cách trực tiếp, bằng đưa thẳng xuống dưới mộ qua một cây ống nứa, hay lồ ô đục lủng mắt...), vẫn quét dọn nhà mồ sạch sẽ cho ma nghỉ ngơi, vẫn khóc hờ than thở chuyện trò cho ma nghe…mãi cho đến khi (có thể đến nhiều năm sau), khi đã làm LỄ BỎ MẢ cho ma mới thôi.

Thôi, là từ sau LỄ BỎ MẢ, tức là sau việc bỏ mả được thực hiện, được làm xong rồi… là sau cuộc LỄ vĩnh biệt nhau mãi mãi rồi... thì người sống và người chết sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Cũng từ sau LỄ BỎ MẢ đó, “Cái chết được hồi  sinh” và “Người sống được giải phóng”(2). Hãy nhớ, “cái chết” chứ không phải “người chết”; “hồi sinh” chứ không phải “sống lại”. “Cái chết được hồi  sinh” nghĩa là theo quan niệm mang ý nghĩa triết học nhân sinh nói trên của người Thượng, thì hồn người chết, tức là ma, sau LỄ BỎ MẢ, sẽ mới được đến sống cùng tổ tiên, trong thế giới ma của họ; để rồi từ miền đất đó, hồn lại lần hồi chuyển hóa trở về, nhập vào một đứa trẻ nào đó, để lớn lên thành một người sống thực...

Cũng sau LỄ BỎ MẢ, thì “Người sống được giải phóng”. Tức là người sống sẽ bỏ cả ngôi nhà mồ và cốt xác người đã chết chôn dưới mả đó cho “rừng ăn”, dứt khoát không nhớ nhung, vướng bận gì với người chết nữa cả...

BỎ MẢ - một vĩnh biệt chung cuộc lớn lao như thế, đến thế… thì phải thực hiện cho đúng với ý nghĩa trọng đại và đầy nhân văn của nó chứ?!...

Cho nên, để bỏ mả, người ta phải mất cả tháng trời cất công dựng lại nhà mồ, sao cho thật đẹp…. Quanh và trong nhà mồ đó, TƯỢNG MỒ là “nhân vật” trung tâm, được tạc ra từ thân gỗ cây rừng và được dựng lên tại khu nhà mồ. TƯỢNG MỒ gồm nhiều loại, có tượng hình người, có tượng hình vật…,mà tâm điểm của các loại TƯỢNG MỒ là tượng tạc hình người, bằng rìu và rựa, theo lối biểu trưng thôi, nhưng vẫn gợi tả cực kỳ sống động về cuộc đời thực, mà người sống đang sống, mà người chết đã từng sống qua, cho đến khi phải mãi mãi vĩnh biệt nhau hôm nay...

Bởi vậy, có thể nói, TƯỢNG MỒ chính là “nhân vật” trung tâm của nhà mồ và của LỄ BỎ MẢ…

2. Thông điệp tư tưởng nhân – sinh...

Bài thơ “tượng mồ” khắc họa khoảng khắc TƯỢNG MỒ - hình tượng thơ trung tâm của bài thơ - buộc phải từ biệt thế giới CON NGƯỜI, trong ánh hoàng hôn của một buổi chiều tà sau cuối, để đi vào miền miên mãi …

Hãy nghe 2 câu mở đầu bài thơ về cuộc chia ly mặc khải này:

“Chiều như lửa đốt lòng nhau

tượng mồ run rẩy về đâu kiếp người”

Có một câu hỏi, không dấu hỏi, như một khắc khoải vô biên của “tượng mồ” cứ nhoi nhói mãi lên... Câu hỏi buông vào cả một chiều hoàng hôn sẫm đỏ… trước một cuộc chia ly đã biết là mãi mãi… khiến lòng tôi đau thắt… “Chiều như lửa đốt…” Câu thơ phác một nét tả thực, cái khoảng khắc hoàng hôn ánh lên, cả một vầng sáng đỏ, trước lúc rồi sẽ chìm lấp hẳn sau cánh rừng xa... Sắc đỏ tứa lên đó từ đâu?

Bạn nhớ luật tán sắc của ánh sáng chứ? Chính là nó đấy! Chính là cái ánh sáng chiều hôm kia (nắng quái), đã tán sắc qua ẩm khí trên ngọn rặng rừng xa, là cái ẩm khí vừa tích tụ được trong suốt một ngày nắng gió cao nguyên, đang xông bốc lên… đã tạo ra… và hắt lên cái ánh sáng màulửa kia đấy…

Đúng vào cái khoảng khắc ma hồn ngời hắt lên sắc đỏ chia ly ấy, “tượng mồ” đã “run rẩy” cất lên cái câu hỏi “về đâu kiếp người”…

Hẳn là “tượng mồ” không chỉ hỏi cho chính mình, mà còn cho cả người còn sống nữa. Thực ra thì có lẽ câu hỏi ấy chắc đã nấu nung, khắc khoải trong lòng “tượng mồ” từ lâu lắm rồi. Không thế thì không thể khiến lòng “tượng mồ” nóng “như lửa đốt”, thân “tượng mồ”“run rẩy” một niềm đau thương, tiếc nhớ đến nhường kia… “Chiều như lửa…”, câu thơ thực cảnh; “… đốt lòng nhau”, chuyển sang thực trạng, và lại kéo theo đó nữa là quan hệ người ở - người đi… khiến tôi thấy cứ hực mãi lên trong lòng “tượng mồ”là cả một niềm khát khao, mong ước...

Nhưng không phải là mong cho qua, mà là ước cho nó đừng đến… cái chiều chia xa miên mãi… này...

“Chiều như lửa đốt lòng nhau

tượng mồ run rẩy về đâu kiếp người”

Hai câu thơ chỉ tập trung đặc tả một khoảng khắc thôi – đó là ánh xế chiều, một hành động nhân vật thôi – đó là “tượng mồ”, một tâm trạng thôi – đó là sự chia ly, một tình cảm thôi – đó là niềm tiếc thương… nhưng nó gợi lên tất cả không gian, thời gian của tồn tại, mang tầm vũ trụ nhân sinh của kiếp người, vẫn còn mãi đó, những luân hồi cuộc sống và cái chết, với một câu hỏi “về đâu”, đến đâu…, sẽ không bao giờ tìm thấy lời đáp!...

Trở xuống, “tượng mồ” nhọc nhằn thê lương… thấp cao thập thững… “đành lòng vậy, cầm lòng vậy”… bước…bước đi… những bước độc thoại cuối cùng… vào hoàng hôn… mà ai cũng đều có thể nhìn thấy rất rõ… có biết bao nỗi niềm trào lên… từ biết mấy nỗi lòng của “tượng…” !...

“đã đành hồn sẽ rong chơi

đã đành xác đã tơi bời gió sương

mà còn đây nỗi vấn vương

mà còn đây nhớ với thương một đời

nỗi đau khóc chẳng thành lời

lặn vào thớ gỗ ru người – người ơi”

Rồi đột nhiên, câu thơ lục bát đang giữ nhịp tự tình, độc thoại, bỗng chuyển vần, phá cách:

“hoang sơ

chiều rót đầy vai

ché và chiêng

và đầy vơi rượu cần

nằm đây một nắm xương tàn

đứng đây tượng hát một ngàn lời yêu

chiều ơi chiều

chiều ơi chiều

cho tôi cùng hát tình yêu một đời”

Ấy là “tượng mồ” cho tôi biết thời gian của cuộc tiễn đưa, đã đến sát vách ngăn cách cuối cùng, với thẳm sâu không gian của cuộc đưa tiễn.

Bạn hãy đọc đi, đọc đi.. Hãy đọc những câu thơ trên bằng chất giọng trầm thống nhất có thể, thì bạn sẽ nghe thấy điều tôi vừa nói. Nhất là đọc cho được tiếng đồng vọng của hai câu thơ này:

“chiều ơi… …

chiều/…

chiều ơi… …

chiều/…

Đó! Bạn nghe thấy gì chưa… nếu không phải là những tiếng gọi nhau đồng vọng qua vách ánh đỏ chiều ngăn cách đang dần đổ xuống thì là gì?! Mà ai gọi ai ở đây nữa nếu không phải là người đã chết, là “tượng mồ” đang đi vào ánh chiều tà… nhưng vẫn mãi ngoái lại thao thiết gọi ta, những người còn sống; là cả ta nữa, những người đang sống, dù đớn đau níu giữ “nhớ với thương một đời”, vẫn không thể không xuôi tay thất thần buông bỏ…với chỉ còn giữ lại… là ánh nhìn tình yêu của mình… đã vuột đi mất khỏi cuộc sống này…

Qua chiều sẽ là tối, là sự chết, người sống biết thế!...

Qua chiều sẽ là sáng, là sự sống, người chết biết thế!...

Chao ôi! Mặc khải “tượng mồ”!

Vâng! Đúng làMặc khải“tượng mồ”!

…Và… Cuối cùng thì nhân vật trữ tình của thi phẩm “tượng mồ” cũng không thể ngồi yên bên ché rượu cần, khuất lấp đâu đó bên ngôi nhà mồ được nữa.

Khúc tiễn đưa dù bi thiết nhất cũng đã qua rồi, phải đổi giọng, chuyển nhịp, để cuộc sống lại tiếp tục cái trật tự muôn thuở của nó. Đúng lúc này, thể thơ lục bát, với câu bát nhịp 2, lại trở lại làm câu kết bài thơ:

“cho tôi cùng hát tình yêu một đời”
 

3.Khúc khải ca mặc tưởng...

Giờ là lúc tôi muốn nói thêm, rằng mới đây tôi được biết, Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai đã đưa bài thơ “tượng mồ” của nhà thơ Văn Công Hùng vào giảng dạy cho sinh viên. Tôi nghĩ đó là một việc làm đúng, hay và rất tốt, bởi cái thông điệp tư tưởng của bài thơ, chính là động cơ tôi muốn được góp lời bình ở trên. Đến đây,tôi cho là theo cách của riêng mình, mỗi người đọc rất cần và phải trả lời cho được câu hỏi “do đâu mà bài thơ “tượng mồ” đã tạo ra được khúc khải ca mặc tưởng ấy?

Hãy hỏi, nhân vật trữ tình đó là ai? Và quan trọng hơn, đến đây, là câu hỏi cần có câu trả lời xác đáng, để có xác tín, là vì sao đọc bài thơ “tượng mồ” của Văn Công Hùng, tôi lại có thể có được cảm nhận thẩm mỹ như đã trình bày ở trên !?

Xác tín là khi và chỉ khi nào ta chứng minh được “cơ sở vật chất” (về hiện thực tồn sinh, là bỏ mả và Lễ Hội bỏ mả), để có cảm nhận tinh thần, tình cảm (về hiện thực thơ) nói trên... thì người đọc bài này mới “cóthể tin được” vì sao tôi gọi“tượng mồ”là một “khải ca mặc tưởng”.“Cơ sở vật chất” nói đây chính là nói đến Lễ hội bỏ mả kia, chứ không phải nói về ngôn ngữ, như là công cụ của Thơ, tức là bảochưa cần nói đến nghệ thuật ngôn ngữ thơ,trong Thi pháp của nhà thơ. Vì bài thơ “tượng mồ” gần như không dụng công cho nghệ thuật ngôn từ, thậm chí là cả về phá cách niêm luật thơ, tức là về Thi pháp, mà cốt chú tâm vào tư tưởng nhân sinh.

Ở bài thơ “tượng mồ”, thông điệp tư tưởng nhân – sinh mà bài thơ muốn chuyển tải đến độc giả là vấn đề cốt yếu. Thi pháp chuyển tải quan điểm triết học nhân sinh của người Thượng mới thật nhân văn làm sao!

Để kết thúc bài viết này, tôi muốn bạn đọc biết thêm bài thơ Pơ thi” mà Văn Công Hùng đã đăng ngay sau bài “tượng mồ” trong tập thơ nói trên:

Pơ thi
 

Chợt tan ra khoảng khắc hoàng hôn

dòng chiêng xoáy vào từng thân tượng gỗ

những bước chân giật lùi trên cỏ

tay trong tay hồn lại gặp tâm hồn

 

chẳng có gì là thật ở nơi đây

cũng chẳng có gì là ảo

tất cả cứ phơi ra như người ta phơi áo

ta lại gặp mình sau bao năm tháng cách xa

 

để rồi ngày mai lại phải chia xa

thì rượu ơi đêm nay đừng bao giờ cạn

cả ngọn lửa cũng đừng bao giờ tắt

đêm dài ra nối những tâm tình

 

có một đêm nay để ta gặp lại mình

kể hết đi những điều chưa biết

người đang sống nói với người đã chết

âm thanh chiêng công ngấm rượu ngả nghiêng

 

từng góc cạnh cuộc đời hiển hiện ở nơi đây

mọi sắc thái tâm tư lồng vào thớ gỗ

tượng mồ đứng lặng im mà dào lên sóng vỗ

nỗi đau lặn đi cho tuyệt tác phơi bày

 

Pơ thi – tôi gặp ở nơi này

nghệ thuật xoay nỗi đau vào trong ruột gỗ

để tài hoa của người cứ hiện lên rực rỡ

ở phía ngoài bức tượng trầm tư

                                           Tháng 5.1986

L.X.L.

________

(1) Tôi đã đọc, đã viết, cũng khá nhiều về thơ Văn Công Hùng. Đặc biệt quan tâm của tôi là nghệ thuật thơ, phong cách thơ của nhà thơ này. Nhưng vẫn thấy còn cần phải chờ đợi thêm ít lâu nữa, mới có thể đi đến khái luận về một phong cách thơ Văn Công Hùng. Bằng chứng là vài năm trở lại đây, thơ Văn Công Hùng ngày một mới hơn, độc đáo hơn, hay hơn nhiều.. nên tôi chưa từng dám công bố gì ở đâu cả, những bàn luận của tôi về thơ Văn Công Hùng. Ngay cả bài viết góp lời tham khảo với các Thầy - Cô giáo giảng bài thơ “tượng mồ”này, tôi cũng viết rồi để đấy… đến nay mới chuyển đăng,..., như một thư ngõ gửi các Thầy –Cô..., như một ngỏ lờitri ân nhà thơ đã cho tôi đọc nhiều thi phẩm rất hay của ông...

(2) TS. Ngô Văn Doanh – LỄ HỘI BỎ MẢ BẮC TÂY NGUYÊN, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội-1995.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm