TIN TỨC

Mây mưa với chữ - cái tôi nữ quyền riêng một vùng yêu

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-10-28 22:28:55
mail facebook google pos stwis
2140 lượt xem

​​​​​​​Ths CAO MINH TÈO

Theo dòng lịch sử thơ ca Việt Nam, ý thức nữ quyền luôn có những có đặc trưng riêng, và thay đổi theo ý thức hệ. Bằng tinh thần dân chủ, nhân văn, sau năm 1986, bức tranh thơ ca nữ lung linh với nhiều “sắc màu bản thể” trên cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Nó đã tạo ra luồng gió mới qua sự giãi bày những trạng thái tâm hồn, thoát khỏi sự bộn bề, sự cô đơn, bận rộn vô cùng từ đời sống hiện đại. Vừa có nét thuần Việt không hề lẫn trộn, vừa cùng hòa nhịp với dòng chảy của văn học đương đại thế giới. Tất cả đã góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú, sinh động cho bức tranh văn học nước nhà trong thời gian qua.

Mỗi nhà thơ nữ là bông hoa biết nói, với nét riêng trong phong cách thơ của mình. Và mỗi bài thơ, mỗi tập thơ là những cung bậc cảm xúc tươi mới, độc đáo, giàu thi ảnh đây ắp những trải nghiệm sâu sắc trong cuộc sống bởi nhà thơ. Đến với Mây mưa với chữ của Trần Mai Hường là đến với sự xúc cảm tâm hồn, thế giới nội tâm đa diện, cách nhìn đời thông qua lăng kín và trái tim của người phụ nữ với khát vọng yêu và được yêu. Thiên tính nữ đã trở thành chiều sâu trong Mây mưa với chữ. Tiếng nói thiên tính nữ được cất lên bằng sự tìm tòi, khám phá, góp phần tạo nên những thi vị cho thơ ca nữ đương đại Việt Nam nói chung, thơ ca nữ TPHCM nói riêng.

Phụ nữ đại diện cho sắc đẹp và tình yêu. Vẻ đẹp của người phụ nữ còn là tiêu chuẫn cho vẻ đẹp của tự nhiên và thiên nhiên. Có lẽ thế, Trần Mai Hường đã dùng hình ảnh màu của đôi môi để miêu tả vẻ đẹp của dòng phù sa. Và tần xuất “môi, mắt” xuất hiện khá nhiều trong Mây mưa với chữ. “Phù sa trôi ngang núi/ Ngọc ngà như màu môi” (Thú nhận); hay “Cứ tưởng mình sẽ gặp/ Môi cười thơm Mai Châu… Đuôi mắt em là sông” (Gửi người bản Lác); hay “Sắc hương dậy những mật tràn môi mắt”.

Ngoài ra, vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ cũng được Trần Mai Hường phô diễn trong Mây mưa với chữ rất tinh tế, nhưng không kém phần quyến rũ. Đó không phải là đường cong mĩ miều với ngực, eo, mông,… thậm chí những phần nhạy cảm trên thân thể người phụ nữ mà là một hình ảnh E-va, cụ thể hơn được nhà thơ định tính phái tính – người đàn bà hay là em. Chính với thi pháp mở giàu tính hình tượng, mỗi bạn đọc có thể có những trường liên tưởng riêng. Trong mỗi người A –đam, đàn ông là một E – va, một đàn bà “phụng phịu ghen hờn”, sẵn sàng cho những cuộc giao hoan với “Phút giây hổ gầm lạc giọng” (Tình em còn nguyên nếp). Từ đó, vừa thể hiện sự thiên phú vừa thể hiện phẩm hạnh của người phụ nữ, kín đáo, nhẹ nhàng nhưng đầy quyền năng bản thể, dù em – nhân vật trữ tình trong Mây mưa với chữ là một người phụ nữ cũng cá tính: “Lập trình em gió ngựa trót hoang rồi” (Gió ngựa trót hoang em).

Dù có sự tôn vinh yếu tố dục tính bản năng thông qua bảo chứng của tình yêu, nhưng trong Mây mưa với chữ của Trần Mai Hương vẫn đầm thắm tinh khôi, không trần bờ quá tải mà chỉ cần “mùi của anh” cũng thành “dây trói em”. Tình yêu gắn liền giữa tinh thần và thể xác, nhưng nhân vật trữ tình trong Mây mưa với chữ là người phụ nữ cần chất xúc tác – anh, một A – đam, để nàng cháy đến kiệt cùng “xích đạo”: “Từ anh ngược dòng sông nhớ/ Chính xanh cảm xúc một thời/ Em dắt thơ về cuối sóng/ Cũng dòng sông nhớ thầm trôi…” (Xin lửa rơm đừng cháy), hay “Em trong anh – bản thể/ Chưa bao giờ hóa trang” (Đêm nghiêng), hay “Anh/ Người đàn ông cầm tù mọi cảm xúc của em…” (Cai ngục), hay “Anh mang mùa đàn ông ru em” (Mùa xanh). Những lời thú nhận của nhân vật nữ trữ tình thật hồn nhiên, nhưng vô cùng sâu sắc, nồng nàn, tựa như một khát khao lứa đôi viên mãn.

Nhân vật trữ tình có những ước ao và khát vọng cuồng say trong nhục cảm. Nàng “như thú dữ nhớ rừng/ Em nhớ anh” (Tình em còn nguyên nếp), đi đến tận cùng của bản thể. Với nàng, yêu không bao giờ là đủ, nên “Đừng ra khỏi hơi thở em/ Đừng ra khỏi đắm say em/ Tình em còn nguyên nếp/ Thung sâu/ Đá kia chồng vợ tự tình” (Tình em còn nguyên nếp), nhưng “Chỉ cần anh thấu đủ/ Em đã thừa bão giông” (Với anh). Qua đây, ý thức nữ quyền vẫn như "sợi chỉ xanh óng ánh" bởi thái độ chủ động, quyết liệt trong tình yêu, nhưng không phải từ sự diễn phô mà chỉ là sự phô diễn đầy ý nhị, mạnh mẻ và đầy cá tính nhưng không phải ngông, muốn đạt ngôi vị nữ hoàng trong xúc cảm yêu đương.

Với nhân vật trữ tình trong Mây mưa với chữ là một E – va, một người đàn bà có quyền năng yêu, nhưng nàng không huyễn hoặc nó, biến tình dục chế ngự đặc tính phái nữ - phái yếu. Với nàng, dù thế nào đi chăng nữa, người phụ nữ vẫn cần sự che trở trong vòng tay của người đàn ông mà mình yêu dấu: “… Nước mắt đàn bà/ Anh lau bằng ấp úng vòng ôm…” (Đêm tình). Với điều này, Mây mưa với chữ của Trần Mai Hường đã chứng minh rằng, ở một khía cạnh nào đó, thông qua nhân vật nữ trữ tình, thể hiện một khát khao hòa hợp bản thể nữ - nam. Người phụ nữ dù có mạnh mẻ thế nào, họ cũng cần một người đàn ông để đồng điệu tâm hồn mình.

Khi yêu, ai cũng mong cầu hạnh phúc đến với mình. Tình đầu là tình cuối, nhưng nào ai học được chữ ngờ. Nhân vật trữ tình trong Mây mưa với chữ cũng thế, khi yêu, “Thảo nguyên em tin cậy uống cạn kiệt ngọt ngào/ Mặc đời bao khúc quanh phiền muộn…” (Cho ngày mình yêu), nhưng khi tình “Thành tro lúc đang xanh”, nàng không hề gục ngã mà “Phục sinh mình/ Từ anh…” (Cai ngục). Điều này cho thấy, nhân vật nữ trữ tình trong Mây mứa với chữ, nàng không hề tuyệt vọng trong tình yêu, dẫu “Đau có mưng mầm từ rẻ rúng người gieo”, nhưng luôn chủ động để đoán nhận tất cả những đắng cay, chua chát dư vị của cuộc tình đã qua và xem đó chính là hương vị của cuộc đời để sống, để yêu, để cho mình được hạnh phúc với tuổi xuân thì.

Yêu là yêu hết mình, khi lìa thì lìa xa, nhưng khi để quên thì việc dặn lòng nhớ những “Mùa xanh còn đẫm người thương…” (Em xưa một thời đấm gió), nó phù hợp với trạng thái tâm lý của con người. Và để rồi từ đó, khi cuộc tình mới lại đến, nhân vật nữ trữ tình thầm “Cảm ơn anh/ Người đàn ông bao dung/ Đã dám yêu cả nhưng bài thơ/ Em viết cho người cũ…” (Viết cho người đến sau). Và nàng luôn đặt lòng tin yêu vào cuộc sống với trái tim căng tròn nhiệt huyết bởi “Tình yêu/ Đừng giải mã…” (Đừng giải mã).

Tình yêu, tình dục trong Mây mưa với chữ của Trần Mai Hường gắn liền với thơ ca. Thế nên, sự cảm nhận về xác thịt trong khát khao của thơ bởi chị, trước hết là sự đụng chạm của cái đẹp nghệ thuật: “Đêm ấy/ Linh hồn chữ thì thầm dẫn em xa cõi thực/ Và mật ngôn chưa chạm đã đầm đìa…” (Em giải mã mình), hay “Những kí tự phiêu linh/ Những con chữ nhiệm màu/ Từ có anh/ Đêm về nhong nhao điên cuồng đòi thoát xác/ Và thơ tình – vì yêu anh em viết/ Ngàn khúc mê cuồng đan khít – thương ơi” (Thơ cho người cũ). Trong sâu kín tâm hồn, người phụ nữ hằng đêm vẫn “cuồn cuộn nhau” nỗi khao khát “hỏa thiêu mình” để được yêu thương trong dòng đời gấp gáp trôi với “Mùi trần gian dụ mời” (Thú nhận) . Và những xúc cảm của xác thịt nồng nàn mà mê đắm luôn ám ảnh trong tâm trí người phụ nữ. Tuy nhiên, dù viết về nhu cầu trần tục nhưng ngôn ngữ thơ trong Mây mưa với chữ của Trần Mai Hường vẫn không trần tục, mà vẫn giữ đượm nét đẹp của thơ ca. Điều này đã góp phần khẳng định được những nét cách tân trong thơ của Trần Mai Hường, tạo ra những giá trị mới cho thơ tình đương đại Việt Nam.

Mây mưa với chữ, ý thức nữ quyền được biểu hiện qua các biểu tượng nổi bật như: nước, bóng đêm,… kèm theo những biến tấu từ các biểu tượng ấy. Bóng đêm trong Mây mưa với chữ, đồng lõa với nhân vật nữ trữ tình trong những tấu khúc tình yêu. Bóng đêm không phải là biểu hiện của sự trốn chạy, mà là thời gian để người phụ nữ “khỏa thân” những xúc cảm “cựa quậy” của tâm hồn mình từ chuyện đời, chuyện tình, với những buồn vui lẫn lộn đan xen: “Mình tiêu hoan cho cạn đêm tình nhân” (Đêm tình), hay “Xin đêm đừng quấn riếc hương… Đêm- ta và chữ hoan ngôn” (Như chưa từng), hay “Đêm nghiêng/ Em xoay tròn những mịn màng em/ Kêu hãnh viết một bài thơ trẻ nhất/ Treo nghiêng tên anh với lời đề tặng/ Đêm nghiên dìu em nghiêng” (Đêm nghiêng).

Biểu tượng nước với biến thể của nó là sóng và dòng sông được Trần Mai Hường sử dụng khá nhiều trong Mây mưa mới chữ. Trong số 45 bài thơ thì Mây mưa với chữ có đến 15 bài thơ được Trần Mai Hường sử dụng hình ảnh sóng và dòng sông. Hầu hết hai biểu tượng này trong tập thơ này mang ý nghĩa thanh tẩy, xoa dịu nỗi đau, khả năng tái sinh, vẻ đẹp thiên tính nữ của nhân vật trữ tình: “Mình không đủ nhau đành giả quên ký ức/ Sóng không đủ hờn mắc cạn giữa trăm năm” (Đối diện đêm); hay “Từ lúc sống tấp bờc chênh vênh vỡ/ Phút hổ gầm lạc giọng thảo nguyên xanh” (Thơ cho người cũ); “Làm sao anh biết được/ Sông kia đang cháy dòng” (Gửi người bản Lác). Qua việc sử dung biểu tượng, cho thấy Trần Mai Hường thành công trong kiểu kiến tạo biểu tượng vừa giống vừa khác với chính nó. Và để hiểu hết những gì mà Nhà thơ gửi gắm qua biểu tượng ấy, nó phục thuộc sự cảm thụ thơ ca của mỗi người đọc, tạo ra những phiên bản thơ mang hồn cốt thơ Trần Mai Hường bởi sự tiếp diễn của biểu tượng trong đồi sống sinh thái của mỗi người.

Nói về việc sử dụng giọng điệu, Mây mưa với chữ hầu như sử dụng giọng đằm thấm, tâm tình hơn hẳn giọng nồng nhiệt, mạnh mẽ. Nếu nói giọng nồng nhiệt, mạnh mẻ mới thể hiện cái tôi cá nhân của nữ nhân vật trữ tình trong Mây mưa với chữ thì điều này không hẳn. Điều độc đáo của tập thơ này là giọng đầm thấm, tâm tình nhưng vẫn thể hiện đặc tính phái tính nữ giàu khát vọng yêu và được yêu. Người phụ nữ vừa đắm say yêu, vừa lo sợ, chơi vơi giữa dòng yêu, nhưng phải vượt qua giông gió của mùi trần gian dụ mời để khẳng định cách sống và yêu của mình.

Và dù ở thể thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 8 chữ, kể cả thơ văn xuôi… nhưng Mây mưa với chữ vẫn là những “Mùa trăng viên mãn”, mụ mị được đọc giả qua một miền yêu rất riêng của Trần Mai Hường.

TPHCM những ngày giãn cách xã hội toàn thành phố!

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm