TIN TỨC

Một tinh thần Nghệ, một bản lĩnh Nghệ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-12-26 18:15:02
mail facebook google pos stwis
1040 lượt xem

ĐẶNG HUY GIANG 
(Đọc “Hốc Chọ” của Bùi Sỹ Hoa, NXB Hội Nhà văn tháng 10 năm 2023)

Trường ca “Hốc Chọ” hấp dẫn tôi ngay từ những câu đầu tiên. Tôi như bị lạc vào không khí vừa có phần thiêng liêng, vừa có phần mê dụ, lại có phần ám ảnh của mạch thơ mang vai trò và giá trị khai mở. Những gì bình thường chợt trở nên khác thường. Những gì khác thường chợt manh nha trong đêm bình thường. Đêm ấy cũng có thể coi là “đêm trở dạ” hoặc “đêm chuyển dạ” để mọi thứ được sinh hạ khi ngày mai đến, khi ngày mai mặt trời trở lại. Và cứ thế, đêm từng đêm tiếp nối...


Nhà thơ Bùi Sỹ Hoa và bìa Trường ca "Hốc chọ"

Hình như gió từ những câu thơ cũng khởi phát từ đó? Và gió là gì, nếu nó không được sinh ra từ những khoảng trống rồi chạy vào những khoảng trống, không ngừng không nghỉ? Nhìn chung, tạo được những khoảng trống trong thơ, gợi ra những khoảng ngẫm ngợi trong thơ, đặc biệt là thơ dài, không phải dễ và cũng là cái tài của người viết.

Đêm đầy sao

Tiếng vạc nhạt vào khuya lãng

Ông tôi ngồi xa xăm

Bóng xiên liếp nhà húng hắng

Chắt cạn ấm chè xanh

Hớp cuối cùng ực nghẹn

Thơm ngọt đầy tràn, đắng chát chưa trôi...

Trong cái “đêm nheo nhóc vá đụp, vá chằng” ấy, “đêm côn trùng nỉ non” ấy, ngày mai gian nan, ngày mai khốc liệt vẫn như nỗi lo thường trực trong ý nghĩ của con người: “Ngày mai trời trút nắng/ Nắng cháy nắng thiêu nắng hừng nắng rát/ Mặt đồng nứt nhăn vầng trán cha/ Nền trời hoang hoải đôi mắt mẹ/ Héo hon nụ cười em gió khô/ Rạc rụng bờ tre gai tháng bảy/ Te tua tàu chuối vàng tháng tám”. Trong cái đêm “trứng nước gió giông” ấy, trong cái đêm “chuyện trạng trào nước mắt” ấy, trong cái đêm “đau đẻ oa oa hạnh phúc” ấy, “giấc mơ gieo trồng dày nhánh sây bông”, “giấc mơ khai khẩn hốc chọ bòn mót” vẫn còn đó. Giấc mơ ấy luôn hối thúc, luôn giục giã, chưa bao giờ yên và cũng là động cơ sống, động lực sống.

“Hốc chọ” - theo giải thích của tác giả là “Vùng khai trang, lập trại nơi rừng sâu, núi thẳm; là vùng đất khó dưới/ giữa chân đồi núi theo từng con nước; được người dân nhiều nơi ở Nghệ An gọi là hốc/hóc, chọ, gọi chung là hốc chọ”. Đây cũng là lời dẫn, lời mở đầu, rồi sau “Và...” là phần chính của “Hốc chọ”.

Chúng ta từng biết một miền Trung qua thơ Phạm Ngọc Cảnh với “sông suối dày tơ nhện”, với “núi choài ra biển”, với “ngày này con trai ta buộc chân vào lèn sóng”; một Hoàng Trần Cương với “miền trung mỏng và sắc như cật nứa/chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam”, với “mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt”... giờ lại gặp một miền trung khác của Bùi Sỹ Hoa. Đó là một miền Trung, cụ thể là Nghệ An, đến đất để trồng cấy cũng phải “bòn mót”. Đó là một miền Trung dẫu “kiệt cùng hang hốc” mà vẫn giữ “đói rách sạch thơm”. Đó là một miền Trung, giống như một ngọn lửa “cháy cạn kiệt, lại thắp bừng đuốc sáng”. Trong cái đêm miền Trung ấy, trong cái đêm “Sao rơi rơi/ Đèn hoa bấc cạn” ấy, vẫn có một người ông “Thở dài nằng nặng/ Rồi vươn tay lấy nước - mát/ mềm/ Rồi vươn vai lấy đá - nóng/rắn”, cho dù “Mai cháy lựng đôi vai”, “Mai toẽ chân dốc đứng”, cho dù phải “Lấy lửa từ đá toé máu/ Nuôi giấc no từ rơm toóc bện khô giòn” thì vẫn phải mài ý chí thông qua việc “mài dao”, “mài đêm”. Mài dao cho sắc, đòi hỏi một sự kiên trì. Nhưng mài đêm, mài ý chí cho sắc, thì quả là một biểu hiện phi thường của sự kiên trì.

Trong cuộc mưu sinh thấm đẫm bao nhiêu kiếp đời không ngừng không nghỉ, ý chí sống, nỗ lực sống để vượt lên hoàn cảnh, không chỉ có ở con người. Hãy đọc những câu thơ dưới đây để thấy môi trường sống và vạn vật cũng vượt lên hoàn cảnh cùng con người, “chung lưng đấu cật” cùng con người, như cũng biết sẻ chia cùng con người:

Sông suối kiệt sức chảy

Lá cành kiệt sức xanh

Rễ siêng kiệt sức tìm

Mạch nước kiệt sức rỉ giọt

    hay:

Suối ngọt vừa tìm dòng trôi vừa róc rách mơ biển mặn

Hạt quả vừa rơi vừa mơ nảy mầm trên đất no lành

Đất cùng người hay người cùng đất, lúc nào cũng nhất mực như thế, ở nghĩa chung thuỷ, vất vả có nhau, no đói có nhau, sống chết có nhau, là một phát hiện trên mảnh đất - đời người từ trải nghiệm của Bùi Sỹ Hoa. Cũng như đời sông, đời người có bên bồi, bên lở, lúc thẳng, lúc quành, “dòng đục đến hồi lắng trong/ dòng trong lắm khi vẩn đục” thì “nước” vẫn “mực trôi xuôi”, thì  “lối mòn bữa nay chưa dứt” vẫn có “lối mòn bữa mai réo chờ”.

Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. Ấy là câu tục ngữ nói về bàn tay liên quan đến lao động, đến miếng ăn, miếng ăn phụ thuộc vào lao động. Tay làm thì có cái để ăn (“hàm nhai”), tay không làm thì đói (“miệng trễ”). Nhưng đấy mới là cái biểu hiện một phần của bàn tay, còn cái biểu hiện toàn phần của bàn tay vừa rất đặc trưng, vừa rất linh hoạt, phải là:

Bàn tay khuấy vào trống không

Bàn tay thõng buông bất lực

Bàn tay ngửa khúm núm vay khất

Bàn ta khum đón nhận mùa vàng

Bàn tay vung lên quyết dành việc lớn

Bàn tay chai quen chặt to, kho mặn

Bàn tay búp măng chữ nghĩa cuốn như rồng

Tôi thích những câu thơ ấn tượng, vừa sống động, vừa rất đời, lại không dễ viết: “Tiếng vạc nhạt vào khuya lãng”, “Bóng xiên liếp nhà”, “Con dao sắc ngủ cùn trong vỏ tối”, “Cỏ dại mỗi sáng thắp treo ngàn vạn giọt sương/ Mầm hy vọng long lanh giữa lặng nín đất trời”, “Uống một mình ra ôi ra thiu/ San đi để có lần sẻ lại”, “Tháng Ba tái xanh chưa qua, tháng tám đã thở dài sườn sượt”, “Những mùa di cư gió ngang, gió dọc/ Mưa buốt mây tràn rớt tiếng tha hương”, “Bay lên thoát kiếp người không/ Bay là sống giữa mênh mông đất lành”... Thủ pháp nhấn nháy cũng được sử dụng rất có ý thức qua việc “quá tam ba bận” nhắc lại một khúc ca trong câu ví sông Lam cổ (nước xuôi). Lần thứ nhất là “Răng là đục là trong/ Răng là vinh, là nhục”. Lần thứ hai đảo lại là “Răng là vinh, là nhục/ Răng là trong, là đục”. Lần thứ ba là nguyên văn câu ví: “Ai biết nác sông Lam răng là trong là đục/ Thì mới biết sống cuộc đời răng là nhục, là vinh”. Ở đời, hiểu hết cái nghĩa lý đục-trong-vinh-nhục và sống hết lòng trong cái môi trường sống ấy, xem ra cũng chẳng dễ!

 “Hốc chọ” có hai trường đoạn viết thật hay, thật đáng nhớ. Đó là trường đoạn viết về cá gỗ với một câu mở đầu: “Tôi là cá gỗ” và trường đoạn viết về Chọ Hao và bà với một câu như là điểm nhấn: “Bà tôi không biết chữ”. Đó là “Tôi là cá gỗ/ Người làng tôi nuôi chí quan trường/ Đi ra bằng vai phải lứa/ Giữa trời ai kém chi ai”; “Tôi là cá gỗ/ Thầy tôi kinh thành lều chõng ứng thí/ Thầy tôi gánh ba bồ chữ/ Lận lưng đôi cắc gọi là/ Trong đầu toàn chuyện kinh bang tế thế/ Hai tay nghiên mực loem loè”; “Tôi là cá gỗ...? Một tôi trăm bữa không không có có/ Một tôi nuôi chí can trường”; “Tôi là cá gỗ/ Bơi trong bát sứa tương bần/ Bơi trong chén mắm loãng/ Lấp chìm sóng sánh thơm tho/ Ngày ngày trôi trôi tháng tháng/ Trầm mình ướt rồi lại khô”; “Tôi là cá gỗ/ Tôi gàn - không chịu hôi tanh/ Tôi gàn - không ăn muối mà không ươn”; “Tôi là cá gỗ/ Từ đẽo gọt bỏ đi mà có/ Từ thẹo thừa bỏ đi mà có”; “Tôi là cá gỗ/ Ra khỏi làng thành ông nọ bà kia/ Về giữa họ làm cháu chắt thưa dạ”; “Tôi là cá gỗ.../ Vượt nghèo và thoát khổ/ Vũng bùn và vũ môn”; “Từ bấy, tôi - cá gỗ../ Vứt nghèo hèn, quẳng ô nhục/ Chân trời cũ chưa qua, phía trước khựng chân trời”... Đó là “Nhà tôi Chọ Hao... Bà tôi mài mực đọc ngược Truyện Kiều/ Mẹ tôi làm dâu củi tươi gió tạt/ Cha tôi mỏi vai, vợi chén rượu lạt/ Tiếng cười khuây nguôi nắng sớm mưa chiều”; “Nhà tôi Chọ Hao.../ Tôi đi lạc bước u mê/ Bước đi trống trếnh, bước về trống trơn/ U ơ bước tủi bước hờn/ Giữa chang chang nắng ập cơn mưa rào/ Lòng quê mát tựa mạch trào/ Lòng tôi sóng sánh dây gầu kéo trăng”; “Bà tôi không biết chữ/ Nói năng ngay lối thẳng hàng/ Hệt như ca dao tục ngữ/ Kèo cột gieo mầm xa, cơm áo ủ giống gần”; “Bà tôi không biết chữ/ Buột mồm lục bát phân vân/ Đời nào mà chó sủa không/ Không anh ăn trộm cũng ông ăn mày”; “Bà tôi không biết chữ.../ Dạy cháu con học để biết, không chỉ dừng ở chữ/ Biết làm người... Nuôi ngày dài, ru đêm trường chân đất”...

Hai trường đoạn này, đặc biệt là trường đoạn “cá gỗ” đã chọn được một cách diễn đạt, cách hành xử đúng mực, vừa chân thành, vừa thành thực, không hẳn cương cũng không hẳn nhu, cương mà nhu, nhu mà cương, uyển chuyển và có sức thuyết phục cao.

Theo tôi, “Hốc chọ” là một trường ca có mảng, có miếng, có luồng có lạch, ngồn ngộn chi tiết thơ, đơn vị thơ xoắn xuýt với nhau, tạo nên nhiều hình tượng thơ, luôn neo bám vào đất quê và hồn quê trong một mạch diễn đạt, suy tưởng hanh thông. Về mặt lao động nghệ thuật, “Hốc chọ” được viết rất kỹ lưỡng, kỳ khu và bộn bề cảm xúc.

Và sau chót, “Hốc chọ” chính là bài ca của sự nhẫn, của sự không khuất phục, của sự cương cường, của ý chí, của cốt cách...làm nên tinh thần Nghệ và bản lĩnh Nghệ.

Nguồn: Tuần báo Văn nghệ số 52 (30/12/2023).

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm