TIN TỨC

Một tinh thần Nghệ, một bản lĩnh Nghệ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-12-26 18:15:02
mail facebook google pos stwis
969 lượt xem

ĐẶNG HUY GIANG 
(Đọc “Hốc Chọ” của Bùi Sỹ Hoa, NXB Hội Nhà văn tháng 10 năm 2023)

Trường ca “Hốc Chọ” hấp dẫn tôi ngay từ những câu đầu tiên. Tôi như bị lạc vào không khí vừa có phần thiêng liêng, vừa có phần mê dụ, lại có phần ám ảnh của mạch thơ mang vai trò và giá trị khai mở. Những gì bình thường chợt trở nên khác thường. Những gì khác thường chợt manh nha trong đêm bình thường. Đêm ấy cũng có thể coi là “đêm trở dạ” hoặc “đêm chuyển dạ” để mọi thứ được sinh hạ khi ngày mai đến, khi ngày mai mặt trời trở lại. Và cứ thế, đêm từng đêm tiếp nối...


Nhà thơ Bùi Sỹ Hoa và bìa Trường ca "Hốc chọ"

Hình như gió từ những câu thơ cũng khởi phát từ đó? Và gió là gì, nếu nó không được sinh ra từ những khoảng trống rồi chạy vào những khoảng trống, không ngừng không nghỉ? Nhìn chung, tạo được những khoảng trống trong thơ, gợi ra những khoảng ngẫm ngợi trong thơ, đặc biệt là thơ dài, không phải dễ và cũng là cái tài của người viết.

Đêm đầy sao

Tiếng vạc nhạt vào khuya lãng

Ông tôi ngồi xa xăm

Bóng xiên liếp nhà húng hắng

Chắt cạn ấm chè xanh

Hớp cuối cùng ực nghẹn

Thơm ngọt đầy tràn, đắng chát chưa trôi...

Trong cái “đêm nheo nhóc vá đụp, vá chằng” ấy, “đêm côn trùng nỉ non” ấy, ngày mai gian nan, ngày mai khốc liệt vẫn như nỗi lo thường trực trong ý nghĩ của con người: “Ngày mai trời trút nắng/ Nắng cháy nắng thiêu nắng hừng nắng rát/ Mặt đồng nứt nhăn vầng trán cha/ Nền trời hoang hoải đôi mắt mẹ/ Héo hon nụ cười em gió khô/ Rạc rụng bờ tre gai tháng bảy/ Te tua tàu chuối vàng tháng tám”. Trong cái đêm “trứng nước gió giông” ấy, trong cái đêm “chuyện trạng trào nước mắt” ấy, trong cái đêm “đau đẻ oa oa hạnh phúc” ấy, “giấc mơ gieo trồng dày nhánh sây bông”, “giấc mơ khai khẩn hốc chọ bòn mót” vẫn còn đó. Giấc mơ ấy luôn hối thúc, luôn giục giã, chưa bao giờ yên và cũng là động cơ sống, động lực sống.

“Hốc chọ” - theo giải thích của tác giả là “Vùng khai trang, lập trại nơi rừng sâu, núi thẳm; là vùng đất khó dưới/ giữa chân đồi núi theo từng con nước; được người dân nhiều nơi ở Nghệ An gọi là hốc/hóc, chọ, gọi chung là hốc chọ”. Đây cũng là lời dẫn, lời mở đầu, rồi sau “Và...” là phần chính của “Hốc chọ”.

Chúng ta từng biết một miền Trung qua thơ Phạm Ngọc Cảnh với “sông suối dày tơ nhện”, với “núi choài ra biển”, với “ngày này con trai ta buộc chân vào lèn sóng”; một Hoàng Trần Cương với “miền trung mỏng và sắc như cật nứa/chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam”, với “mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt”... giờ lại gặp một miền trung khác của Bùi Sỹ Hoa. Đó là một miền Trung, cụ thể là Nghệ An, đến đất để trồng cấy cũng phải “bòn mót”. Đó là một miền Trung dẫu “kiệt cùng hang hốc” mà vẫn giữ “đói rách sạch thơm”. Đó là một miền Trung, giống như một ngọn lửa “cháy cạn kiệt, lại thắp bừng đuốc sáng”. Trong cái đêm miền Trung ấy, trong cái đêm “Sao rơi rơi/ Đèn hoa bấc cạn” ấy, vẫn có một người ông “Thở dài nằng nặng/ Rồi vươn tay lấy nước - mát/ mềm/ Rồi vươn vai lấy đá - nóng/rắn”, cho dù “Mai cháy lựng đôi vai”, “Mai toẽ chân dốc đứng”, cho dù phải “Lấy lửa từ đá toé máu/ Nuôi giấc no từ rơm toóc bện khô giòn” thì vẫn phải mài ý chí thông qua việc “mài dao”, “mài đêm”. Mài dao cho sắc, đòi hỏi một sự kiên trì. Nhưng mài đêm, mài ý chí cho sắc, thì quả là một biểu hiện phi thường của sự kiên trì.

Trong cuộc mưu sinh thấm đẫm bao nhiêu kiếp đời không ngừng không nghỉ, ý chí sống, nỗ lực sống để vượt lên hoàn cảnh, không chỉ có ở con người. Hãy đọc những câu thơ dưới đây để thấy môi trường sống và vạn vật cũng vượt lên hoàn cảnh cùng con người, “chung lưng đấu cật” cùng con người, như cũng biết sẻ chia cùng con người:

Sông suối kiệt sức chảy

Lá cành kiệt sức xanh

Rễ siêng kiệt sức tìm

Mạch nước kiệt sức rỉ giọt

    hay:

Suối ngọt vừa tìm dòng trôi vừa róc rách mơ biển mặn

Hạt quả vừa rơi vừa mơ nảy mầm trên đất no lành

Đất cùng người hay người cùng đất, lúc nào cũng nhất mực như thế, ở nghĩa chung thuỷ, vất vả có nhau, no đói có nhau, sống chết có nhau, là một phát hiện trên mảnh đất - đời người từ trải nghiệm của Bùi Sỹ Hoa. Cũng như đời sông, đời người có bên bồi, bên lở, lúc thẳng, lúc quành, “dòng đục đến hồi lắng trong/ dòng trong lắm khi vẩn đục” thì “nước” vẫn “mực trôi xuôi”, thì  “lối mòn bữa nay chưa dứt” vẫn có “lối mòn bữa mai réo chờ”.

Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. Ấy là câu tục ngữ nói về bàn tay liên quan đến lao động, đến miếng ăn, miếng ăn phụ thuộc vào lao động. Tay làm thì có cái để ăn (“hàm nhai”), tay không làm thì đói (“miệng trễ”). Nhưng đấy mới là cái biểu hiện một phần của bàn tay, còn cái biểu hiện toàn phần của bàn tay vừa rất đặc trưng, vừa rất linh hoạt, phải là:

Bàn tay khuấy vào trống không

Bàn tay thõng buông bất lực

Bàn tay ngửa khúm núm vay khất

Bàn ta khum đón nhận mùa vàng

Bàn tay vung lên quyết dành việc lớn

Bàn tay chai quen chặt to, kho mặn

Bàn tay búp măng chữ nghĩa cuốn như rồng

Tôi thích những câu thơ ấn tượng, vừa sống động, vừa rất đời, lại không dễ viết: “Tiếng vạc nhạt vào khuya lãng”, “Bóng xiên liếp nhà”, “Con dao sắc ngủ cùn trong vỏ tối”, “Cỏ dại mỗi sáng thắp treo ngàn vạn giọt sương/ Mầm hy vọng long lanh giữa lặng nín đất trời”, “Uống một mình ra ôi ra thiu/ San đi để có lần sẻ lại”, “Tháng Ba tái xanh chưa qua, tháng tám đã thở dài sườn sượt”, “Những mùa di cư gió ngang, gió dọc/ Mưa buốt mây tràn rớt tiếng tha hương”, “Bay lên thoát kiếp người không/ Bay là sống giữa mênh mông đất lành”... Thủ pháp nhấn nháy cũng được sử dụng rất có ý thức qua việc “quá tam ba bận” nhắc lại một khúc ca trong câu ví sông Lam cổ (nước xuôi). Lần thứ nhất là “Răng là đục là trong/ Răng là vinh, là nhục”. Lần thứ hai đảo lại là “Răng là vinh, là nhục/ Răng là trong, là đục”. Lần thứ ba là nguyên văn câu ví: “Ai biết nác sông Lam răng là trong là đục/ Thì mới biết sống cuộc đời răng là nhục, là vinh”. Ở đời, hiểu hết cái nghĩa lý đục-trong-vinh-nhục và sống hết lòng trong cái môi trường sống ấy, xem ra cũng chẳng dễ!

 “Hốc chọ” có hai trường đoạn viết thật hay, thật đáng nhớ. Đó là trường đoạn viết về cá gỗ với một câu mở đầu: “Tôi là cá gỗ” và trường đoạn viết về Chọ Hao và bà với một câu như là điểm nhấn: “Bà tôi không biết chữ”. Đó là “Tôi là cá gỗ/ Người làng tôi nuôi chí quan trường/ Đi ra bằng vai phải lứa/ Giữa trời ai kém chi ai”; “Tôi là cá gỗ/ Thầy tôi kinh thành lều chõng ứng thí/ Thầy tôi gánh ba bồ chữ/ Lận lưng đôi cắc gọi là/ Trong đầu toàn chuyện kinh bang tế thế/ Hai tay nghiên mực loem loè”; “Tôi là cá gỗ...? Một tôi trăm bữa không không có có/ Một tôi nuôi chí can trường”; “Tôi là cá gỗ/ Bơi trong bát sứa tương bần/ Bơi trong chén mắm loãng/ Lấp chìm sóng sánh thơm tho/ Ngày ngày trôi trôi tháng tháng/ Trầm mình ướt rồi lại khô”; “Tôi là cá gỗ/ Tôi gàn - không chịu hôi tanh/ Tôi gàn - không ăn muối mà không ươn”; “Tôi là cá gỗ/ Từ đẽo gọt bỏ đi mà có/ Từ thẹo thừa bỏ đi mà có”; “Tôi là cá gỗ/ Ra khỏi làng thành ông nọ bà kia/ Về giữa họ làm cháu chắt thưa dạ”; “Tôi là cá gỗ.../ Vượt nghèo và thoát khổ/ Vũng bùn và vũ môn”; “Từ bấy, tôi - cá gỗ../ Vứt nghèo hèn, quẳng ô nhục/ Chân trời cũ chưa qua, phía trước khựng chân trời”... Đó là “Nhà tôi Chọ Hao... Bà tôi mài mực đọc ngược Truyện Kiều/ Mẹ tôi làm dâu củi tươi gió tạt/ Cha tôi mỏi vai, vợi chén rượu lạt/ Tiếng cười khuây nguôi nắng sớm mưa chiều”; “Nhà tôi Chọ Hao.../ Tôi đi lạc bước u mê/ Bước đi trống trếnh, bước về trống trơn/ U ơ bước tủi bước hờn/ Giữa chang chang nắng ập cơn mưa rào/ Lòng quê mát tựa mạch trào/ Lòng tôi sóng sánh dây gầu kéo trăng”; “Bà tôi không biết chữ/ Nói năng ngay lối thẳng hàng/ Hệt như ca dao tục ngữ/ Kèo cột gieo mầm xa, cơm áo ủ giống gần”; “Bà tôi không biết chữ/ Buột mồm lục bát phân vân/ Đời nào mà chó sủa không/ Không anh ăn trộm cũng ông ăn mày”; “Bà tôi không biết chữ.../ Dạy cháu con học để biết, không chỉ dừng ở chữ/ Biết làm người... Nuôi ngày dài, ru đêm trường chân đất”...

Hai trường đoạn này, đặc biệt là trường đoạn “cá gỗ” đã chọn được một cách diễn đạt, cách hành xử đúng mực, vừa chân thành, vừa thành thực, không hẳn cương cũng không hẳn nhu, cương mà nhu, nhu mà cương, uyển chuyển và có sức thuyết phục cao.

Theo tôi, “Hốc chọ” là một trường ca có mảng, có miếng, có luồng có lạch, ngồn ngộn chi tiết thơ, đơn vị thơ xoắn xuýt với nhau, tạo nên nhiều hình tượng thơ, luôn neo bám vào đất quê và hồn quê trong một mạch diễn đạt, suy tưởng hanh thông. Về mặt lao động nghệ thuật, “Hốc chọ” được viết rất kỹ lưỡng, kỳ khu và bộn bề cảm xúc.

Và sau chót, “Hốc chọ” chính là bài ca của sự nhẫn, của sự không khuất phục, của sự cương cường, của ý chí, của cốt cách...làm nên tinh thần Nghệ và bản lĩnh Nghệ.

Nguồn: Tuần báo Văn nghệ số 52 (30/12/2023).

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bài thơ ANH QUÊN của nhà thơ Phạm Đình Phú
Bài của nhà thơ Nguyễn Đình Sinh
Xem thêm
Dưới gầm trời lưu lạc – Bản ngã nhà báo trong vỏ bọc nhà văn
“Dưới gầm trời lưu lạc” không chỉ là tựa đề một tập sách bút ký xuất sắc của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng, mà còn là một hành trình tinh thần đầy trăn trở giữa lằn ranh của báo chí và văn chương.
Xem thêm
Người thơ mang áo blouse
Bài của Đại tá nhà văn Nguyễn Minh Ngọc
Xem thêm
Xuân Trường mưa mai trong nắng chiều
Bài viết của nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng
Xem thêm
Nụ hôn – biểu tượng của ký ức và lòng nhân hậu
Qua lăng kính bình thơ của hai nữ nhà thơ Minh Hạnh và Nguyễn Thị Phương Nam, người đọc có thể cảm nhận được những “nụ hôn” mang hình dáng đất nước
Xem thêm
Văn chương và những ngộ nhận đáng buồn
Tôi đã đọc một số bài thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều từ những năm trước, nó như có tính “dự báo”, “dọn đường” cho trường ca “Lò mổ” ra đời tạo được tiếng vang. Và thi ca với sứ mệnh thiêng liêng của nó, qua trường ca “Lò Mổ” cũng sẽ vượt qua biên giới của lý trí để tới với bạn bè năm châu bốn biển.
Xem thêm
Vai trò của chúa Trịnh với thương cảng Phố Hiến
Suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, địa danh Phố Hiến vừa thân thương vừa thân thuộc trong trí nhớ mọi người. Phố Hiến từng là một thương cảng lớn sầm uất và quan trọng bậc nhất của xứ Đàng ngoài (miền Bắc Việt Nam).
Xem thêm
Những nụ hôn chữa lành
Đọc tập thơ Ấm lòng những nụ hôn như thế của Phạm Đình Phú
Xem thêm
Trở lại cánh đồng thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh
Nhà thơ Y Phương ở miền non nước Cao Bằng đã từng tâm niệm: “Thơ cũng giống như tình yêu. Không có sự run rẩy thì không có thơ“. Quả thực, thơ ca thực sự là kết tinh, là ngọc đọng, là phiến Kỳ nam trong rừng trầm hương, là hạt minh châu trong biển hạt trai, là tinh hoa trong vườn phương thảo.
Xem thêm
“Những nụ hôn như thế” – từ ngọn lửa yêu thương đến ngọn nguồn hy sinh
Cảm nhận về bài thơ cùng tên trong tập thơ của Phạm Đình Phú – Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM
Xem thêm
Bước đầu tìm hiểu 50 năm thơ Bình Định (1975-2025)
Bình Định – vùng “Đất võ trời văn” – không chỉ nổi tiếng với truyền thống thượng võ, mà còn là mảnh đất đã sản sinh và nuôi dưỡng nhiều thế hệ thi sĩ tài hoa.
Xem thêm
Sự hồi quang ký ức trong “Bài thơ cánh võng”
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang
Xem thêm
Văn học Bình Dương – 50 năm một hành trình lặng lẽ và bền bỉ
Bài viết công phu của tác giả Nguyễn Quế không chỉ khắc họa hành trình văn học của vùng đất Thủ suốt 50 năm qua...
Xem thêm
5 sắc thái của một giọng thơ lạ trong “Ru say muợn tỉnh – Ru tình mượn nhau”
Bài viết của Lương Cẩm Quyên sẽ đưa bạn đọc khám phá một hồn thơ đầy bản lĩnh, dám giễu đời...
Xem thêm
Thời đương đại nghe lời thơ lục bát ru tình
Bài viết của Tiến sĩ Hà Thanh Vân
Xem thêm
“Nghiêng về phía nỗi đau” - Từ góc nhìn lý thuyết chấn thương
Nguồn: Tạp chí Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Mặc khải của nước, lửa &…
Bài của nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế
Xem thêm
Võ Chí Nhất kể chuyện trinh thám
Một ngày đẹp trời, Võ Chí Nhất gửi tặng tôi cuốn sách vừa ra mắt bạn đọc. Những gì tôi biết về anh, đó là một Đại úy đang công tác trong ngành Công an tuổi đời khoảng ba mươi.
Xem thêm
Bảo Lộc - người thơ ở lại
Nguồn: Văn nghệ Công an
Xem thêm