- Tư liệu văn học
- Người đi tìm hương sắc văn chương
Người đi tìm hương sắc văn chương
Kỳ 2[1]
Thời trẻ, tôi có biết Nhạc sỹ Trương Quang Lục phổ nhạc thơ Hoài Vũ bài “Vàm Cỏ Đông” lúc đó chưa hề đến Long An. Nhà thơ Hoài Vũ cho biết lúc mới vượt Trường Sơn vào đến Long An, đến sông Vàm Cỏ Đông, tàu chiến đi tuần trên sông liên tục, phải chờ ám hiệu của cơ sở, chiếc ghe gắn máy mới băng ngang, nhưng chưa đến bờ bên kia, chân vịt vướng, phải đưa lên gỡ búi tóc phụ nữ găn vào đó. Cô giao liên nói đó là tóc một cán bộ nữ bị bắn chết khi băng qua sông và chân vịt chỉ lấy được tóc. Hoài Vũ nước mắt đầm đìa viết bài thơ “Vàm Cỏ Đông” gửi ra bắc in báo. Báo ra, nhạc sỹ Trương Quang Lục đang ở nhà máy phốt phát Lâm Thao, đọc trong đêm và phổ nhạc cho bài thơ.
“Với dòng sông quê hương” của tác giả Nguyễn Thanh in trên Tuần Báo Văn Nghệ số xuân Quý Mão 2023 (số 2+3+4) ra ngày 17/01/2023; ông viết thêm chị Bảy Nhàn góp phần trong cảm hứng và có rất nhiều bài hát tân nhạc, vọng cổ... nổi tiếng lại là thơ Hoài Vũ được phổ nhạc.
Nhiều độc giả ngưỡng mộ câu triết luận của anh: “Trong lịch sử văn học thế giới (từ) xưa (đến) nay, thi ca với hội họa, âm nhạc có mối tương quan định mệnh (với nhau)” - chỉ có những nghệ sỹ đa tài mới nhìn nhận ra điều này và lồng ghép thành chủ đề bài viết về gương mặt tác giả nhà thơ Hoài Vũ...
Về mặt tư duy, tôi kiểm tra lại: nhờ thông thạo 9 ngoại ngữ: Tiếng Anh, Tiếng Pháp, Tiếng Trung Hoa… Anh có điều kiện tiếp cận với văn học thế giới… Trong bài có đoạn dẫn về Hán thi (thơ chữ hán) Trưởng Tương Tư của Lương Ý Nương là kiến thức chuyên sâu ít người biết, một đóng góp của anh về học thuật cũng là rạch ròi việc nhà thơ Hoài Vũ kế thừa và phát triển vốn kim cổ đông tây chứ không phải tự nghĩ ra. Đó là chuyện tất nhiên của nhân loại.
Nhà thơ Hoài Vũ có trích một đoạn trong bài này đưa vào tập thơ, thơ phổ nhạc “THÌ THẦM VỚI DÒNG SÔNG”, [2] trang 11: “Trong văn chương, người ta thường coi hình ảnh con đường và dòng sông là biểu tượng sinh mệnh của lịch sử và tình yêu. Sông Vàm Cỏ Đông của Long An đã đi vào thi ca thời nhân dân chống giặc ngoại xâm. Hoài Vũ là một tác giả tiêu biểu của những vần thơ đẹp về dòng sông quê yêu thương ấy. Với Hoài Vũ hay nhiều nghệ sỹ khác, nỗi đau khổ dường như là mảnh đất màu mỡ hình thành những kiệt tác của kẻ tài hoa. Thảm cảnh chết chóc từ chiến tranh, nỗi khắc khoải khổ đau trong xa cách hay nhung nhớ đợi chờ, đã giúp cho nhà thơ Hoài Vũ sở hữu những vần thơ tuyệt bút lưu lại mai sau”. Trong căn nhà riêng của nhà thơ Hoài Vũ, số 21 đường D52, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, tôi đọc xong những dòng này và buột miệng nói với nhà thơ Hoài Vũ: “Trong 13 trích đoạn đánh giá về thơ của anh (Hoài Vũ) in trong cuốn này, nhà văn Nguyễn Thanh đánh giá đầy đủ nhất theo nghĩa văn hóa: hiện thực đi vào tâm hồn nhà thơ để hóa thành thi ca”.
Tôi xem lại các bài anh viết về nhạc sỹ Lưu Hữu Phước tác giả bài ca Giải Phóng miền Nam đã đi vào lịch sử. Nhà phê bình văn học Nguyễn Thanh còn viết về các nhà thơ, nhà văn khác của Sài Gòn trong vùng chế độ Việt Nam cộng hòa quản lý.
Trong 2.400 chữ bài chân dung “NHÀ THƠ NGUYÊN SA VÀ TÌNH YÊU TUỔI NGỌC” Nguyễn Thanh đã khắc họa đầy đủ chi tiết sự nghiệp của nhà thơ đồng thời là thầy dạy văn của anh lúc học lớp đệ nhị, đệ nhất trường Chu Văn An – Sài Gòn. “Trên văn đàn từ thập niên 50-60 thế kỷ trước ở Sài Gòn, nhà thơ Nguyên Sa là một ngôi sao lớn có ánh sáng đặc thù trong vũ trụ thi ca. Ngoài những tác phẩm văn xuôi, thơ của Nguyên Sa vừa có tính cách tân vừa hòa hợp ít tìm thấy trong thơ của các thi sĩ cùng thời”.
Không chỉ viết phê bình văn học, Nguyễn Thanh còn viết phê bình nghệ thuật. Sử dụng khả năng của một họa sỹ, cộng với ngôn từ của một nhà văn; “LUNG LINH TRANH LỤA NGUYỄN THỊ TÂM” của Đan Thanh, bài bút ký, không chỉ viết về sự nghiệp mà với kiến thức hội họa của mình, tác giả nêu bật đóng góp cho cách tân tranh lụa của nữ họa sỹ. “Điểm nổi bật làm mọi người không quên ở họa sĩ Nguyễn Thị Tâm trước tiên là nghệ sĩ đã dám mạnh dạn cách tân kỹ thuật vẽ tranh lụa...”. Ở đây, không chỉ muốn vinh danh họa sỹ Nguyễn Thị Tâm mà độc giả tìm thấy trong đó tấm lòng họa sỹ Đan Thanh mong muốn ngành thủ công mỹ nghệ nổi tiếng từ thời xưa đang có xu hướng phôi phai do phát triển nghệ thuật và do phản văn hóa; sẽ được xã hội góp công vực dậy và phát triển...
*
Nhà văn Nguyễn Thanh tâm sự: Văn nghệ sỹ có vị trí trong sự nghiệp kháng chiến với điều kiện không bỏ đất nước ra hải ngoại, hầu hết được ông viết bài giới thiệu sự nghiệp gắn với những tư liệu mới về cuộc đời và sáng tác với các góc nhìn mới mẻ. Dựa trên các tư liệu thật, trong bối cảnh cuộc đời, ông chắt lọc không chỉ để tôn vinh cống hiến mà chỉ ra nét riêng có trong bức tranh toàn cảnh cuộc đời của người được vinh danh.
Lấy nhạc sỹ Văn Cao tác giả bài “TIẾN QUÂN CA” đã đi vào lịch sử dân tộc chẳng hạn; bài “Văn Cao – Một lòng vì Tổ quốc”, Tuần báo Văn Nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam ra thứ bảy ngày 10/9/2016; Nguyễn Thanh khắc họa Văn Cao xuất thân con nhà nghèo. “Năm 1938, khi mới 15 tuổi, gia đình sa sút, Văn Cao phải nghỉ học”. Từng theo chị ruột vào Sài Gòn mưu sinh thất bại phải trở ra Bắc. “Văn Cao đi làm điện thoại viên ở Nhà Bưu điện Hải Phòng. Nhưng làm được một tháng, Văn Cao bỏ việc…”. Tài hoa nở sớm:
Về sáng tác âm nhạc: “Từ 16 đến 18 tuổi, Văn Cao đã cắm những cái mốc trong âm nhạc với những tác phẩm trữ tình man mác: SUỐI MƠ, TRƯƠNG CHI, BUỒN TÀN THU… Riêng với “Thiên Thai”, mà tác giả Văn Cao đã mượn cái không khí Đường thi lung linh huyền diệu như sương khói trong thơ Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai của Tào Đường. Năm 2001, ca khúc Thiên Thai được dùng làm nhạc nền cho phim Người Mỹ trầm lặng…”. Khi mới 21 tuổi, Văn Cao viết Tiến quân ca để rồi một năm sau đó trở thành Quốc ca (1944)... Năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, Văn Cao viết Trường ca Sông Lô - một tác phẩm vĩ đại, chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương... - bản nhạc đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc, là đỉnh cao của nhạc kháng chiến. Trong sự tương tác vượt không gian, thời gian và cả ý thức hệ: “Sau năm 1954, những ca sĩ hàng đầu của Sài Gòn như: Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thanh, Ánh Tuyết…đã trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao”…
Về thi ca: “Nhớ lại, năm 1940, Văn Cao, trong chuyến đi vào Nam. Khi dừng chân ở Huế, Văn Cao sáng tác bài thơ đầu tay: “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế”, còn mang phong cách nghệ thuật của thơ mới, nhưng rất điêu luyện, mượt và không kém các bậc đàn anh trong làng thơ mới trước đó. Và sau này, bài thơ “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc” (sáng tác năm 1945), được coi là đạt đến nghệ thuật đỉnh cao, miêu tả hiện thực đến tận cùng thảm họa khủng khiếp của đồng bào thủ đô Hà Nội trong nạn đói năm đó”…
Về hội họa:” Năm 1943 và 1944, trong hai lần Triển lãm Salon Unique, tổ chức tại nhà Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội, Văn Cao đã gởi các bức tranh sơn dầu: “Cô gái dậy thì”, “Sám hối”, Nửa đêm” và “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử” (Le Bal aux Suicidés)... Cuộc khiêu vũ của những người tự tử, được Văn Cao trưng bày tại phòng Triển lãm Duy nhất Hà Nội (Salon Unique, -1944), đã làm giới mỹ thuật ngạc nhiên về bút pháp và màu sắc của tác giả.”...
Nhưng có một mãng cống hiến cả sinh mạng của mình cho cách mạng không ai biết đến. Do giỏi võ nên “Tháng 12 năm 1944, Văn Cao được phân công thành lập một đội vũ trang với tên gọi là “Đội danh dự Việt Minh” do Văn Cao làm Đội trưởng, có nhiệm vụ tiêu diệt những tên Việt gian phản động… Tháng 12 năm 1946, Lê Giản- Giám đốc Nha Công an Trung ương tìm gặp Văn Cao tại quán Cà phê Thiên Thai ở phố Hàng Gai và đề nghị: “Mình muốn cậu sang giúp ngành công an. Cậu sẽ phụ trách đội Điều tra Liên khu 10. Với kinh nghiệm hoạt động bí mật trước đây, lại có vỏ bọc là nhạc sĩ, chỉ có cậu mới đủ khả năng trong công việc khó khăn và phức tạp này”. Tháng 3 năm 1947, Văn Cao cùng vợ là Nghiêm Thúy Băng lên Lào Cai. Một địa điểm gần chợ Cốc Lếu được Văn Cao chọn làm cơ sở hoạt động của đội Điều tra.”…
Đánh giá từ thế giới: “Năm 1989, tạp chí National Geographic đã đăng một bức ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư bên chiếc đàn dương cầm của ông. Chính tấm hình này đã tạo cảm hứng để nhà soạn nhạc đương đại người Mỹ Robert Ashley sáng tác nên bản solo cho piano mang tên Văn Cao’s Meditation (Sự trầm tư của Văn Cao) vào năm 1992…”
Khi viết về sáng tác của Nguyễn Thanh trong lĩnh vực hội họa, sáng tác ca khúc, võ sư… tôi gặp khó khăn do không được đào tạo trong 3 lĩnh vực này.
Nguyễn Thanh là võ sư, nhà thơ, nhà văn, nhạc sỹ, họa sỹ… nên ông dễ dàng cảm thụ, phân tích đánh giá Văn Cao và với một tấm lòng trân quý, trong 4002 ký tự, Nguyễn Thanh đã dựng được chân dung khá đầy đủ, chân thực và sống động người nhạc sỹ, nhà thơ, họa sỹ và người chiến sỹ cách mạng tài hoa Nam Cao.
*
Là giáo viên dạy tiếng Đức, tiếng Pháp, thông thạo tiếng Anh, tiếng Trung Hoa... Nguyễn Thanh có điều kiện đọc trực tiếp các tác phẩm nước ngoài từ nguyên bản và có vốn văn hóa của các nước đó để hiểu, cảm thụ đúng tầm của tác phẩm… Do đó Nguyễn Thanh còn viết về những văn hào nước ngoài để lại dấu ấn văn hóa nhân loại của thế giới.
“Thơ Wordswrth là tiếng hát ca ngợi lòng yêu thiên nhiên nồng thắm, lòng yêu người sâu lắng và tinh thần lạc quan, yêu thương gắn bó thiết tha với cuộc sống quý giá duy nhất của đời người”[3]. Khắc họa cuộc đời, sự nghiệp nhà thơ William Wordswrth sống cách đây 2 thế kỹ, nhà văn Nguyễn Thanh ngầm nhắc nhỡ người Việt hãy biết bảo vệ thiên nhiên và nền văn hóa “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” đang có phần mai một trước sức quyến rũ của đồng tiền.
“Bài lời giả biệt (“L’Adieu”), được nhà thơ Bùi Giáng nhiều lần dịch ra tiếng Việt và nhạc sỹ Phạm Duy phổ nhạc với tựa đề Mùa thu chết”[4]. Nó cho thấy thi ca là vốn chung của nhân loại và tác giả Nguyễn Thanh như muốn đặt câu hỏi tại sao các thi nhân Việt Nam không mạnh dạn bước vào đại dương văn hóa để cống hiến cho nhân loại.
“Cuộc đời của Victor Hugo không chỉ nặng trĩu nỗi đau về gia đình mà còn canh cánh với bao biến thiên thịnh suy của đất nước. Điều đáng trân trọng là trong hoàn cảnh chính trị nào, nhà thơ cũng luôn dùng ngọn bút hoa sắc bén của mình phục vụ nhân dân”. Victor Hugo biến nỗi đau, những bất công đè nén thành “mãnh đất mầu mỡ cho một danh mộc văn chương tỏa trùm bóng mát trong lịch sử văn học thế giới…” [5]. Bài phê bình văn học không chỉ dựng lại ngắn gọn, đầy đủ cuộc đời, những đóng góp cho văn học thế giới của Victor Hugo; mà qua đó, động viên những nhà văn vượt qua nghịch cảnh, bớt cái tôi để dành bút lực phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân.
“Tinh thần lạc quan vô tận trong văn chương Goethe là mùa xuân tươi thắm, làm hạt nhân mãnh liệt, thôi thúc con người trong bất cứ hoàn cảnh nào trong đời cũng không ngừng phấn đấu, hăm hở vượt xa và mãi mãi bay cao hơn”[6]. Cộng hòa liên bang Đức là quê hương của các nhà triết học nổi tiếng như Các Mác, Georg Wilhelm Friedrich Hegel … Trong một bài phê bình văn học ngắn 4000 từ, Nguyễn Thanh đã tóm tắt tác phẩm nổi tiếng “Faust”, tạm dịch “Nắm tay nhau”; đủ để độc giả hiểu nội dung và vấn đề của một tác phẩm đồ sộ, cũng là một trong vài tác phẩm mang tính triết lý cao nhất trong lịch sử văn học thế giới. Ở bài phê bình văn học này, Nguyễn Thanh sử dụng kiến thức Văn học – triết học bậc cao một cách giản dị, dễ hiểu như cuộc đời dù phức tạp, rộng lớn, mênh mang nhưng vẫn có thể tìm ra cách diễn đạt đơn giản cho tất cả mọi người.
*
“Làm bí thư hoài có bí thơ”[7]. Nguyễn Thanh có một loạt bài phê bình văn học về các nhà thơ vốn là các chính trị gia cách mạng như “Tố Hữu – đinh ninh một mầu cờ”, “Lê Đức Thọ - nhà thơ từ chối giải Nobel Hòa bình”…
Đặc biệt, khi viết về Bác Hồ, lãnh tụ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Thanh chọn góc nhìn mỹ thuật pháp. Từ thực tế: “Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không thích làm thơ vì đã sinh ra trong thời quốc phá gia vong… Nhưng một hiện thực không ai có thể phủ nhận là mỗi khi Bác cầm cọ vẽ tranh hay đặt bút viết văn, làm thơ, dù tranh ký họa, văn xuôi hay văn vần, sáng tác nào của Bác cũng mang dấu ấn của một tác phẩm hoàn chỉnh có giá trị từ nội dung đến nghệ thuật…Tổng quan nhìn lại, chưa đề cập rộng lớn về giá trị nghệ thuật đến toàn bộ sự nghiệp văn chương, mỹ thuật, báo chí… của Bác Hồ, ta chỉ nói riêng về phương cách sử dụng mỹ từ pháp của Hồ Chủ Tịch đã hình thành một vẽ đẹp trong sáng của thẩm mỹ học, nét tinh tế của ngòi bút điêu luyện vừa truyền thống, vừa hiện đại ở sự nghiệp văn học mang tính nhân văn đặc trưng và phong cách nghệ thuật độc đáo của người”[8]. Chỉ có 2.300 chữ, Bằng vốn kiến thức mỹ học, tiếng Pháp, tiếng Trung Hoa; Nguyễn Thanh tập trung vào cách sử dụng mỹ từ pháp của Bác Hồ trong thi ca, trong các văn bản, trong các bài báo… ông tìm ra cấp độ nhuần nhuyễn, trong sáng, dễ hiểu và giản dị, ngắn gọn đến mức không tìm thấy một từ, một dấu thừa của Bác Hồ…
Khi văn chương có giá trị cao đến một mức nào đó, sẽ vượt tầm mức phe phái, chính trị. Nguyễn Thanh dẫn dắt cho chúng ta tự lý giải, vì sao trong lịch sử loài người, Hồ Chí Minh là một nhà chính trị duy nhất được UNESCO tôn vinh là nhà văn hóa. Về phương diện thi ca, Nguyễn Thanh cũng giúp chúng ta tự đưa ra kết luận: xét trên tiêu chí Chân Thiện Mỹ cộng với tiêu chí văn học vị nhân sinh, Hồ Chí Minh là thi sỹ vĩ đại nhất của Việt Nam thế kỷ thứ XX.
*
Nhà văn Nguyễn Thanh đã in 6 cuốn sách phê bình văn học, tiểu luận:
- NHỮNG ÁNG VĂN HAY I (tuyển, chú giải và bình thơ) – Cần Thơ Ấn quán in năm 1962;
- NHỮNG ÁNG VĂN HAY II (Tuyển và bình văn xuôi) – Cần Thơ Ấn quán in năm 1963;
- NHỮNG NÉT ĐAN THANH (Các tiểu luận) Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh in năm 2007;
- ĐI TÌM HƯƠNG SẮC VĂN CHƯƠNG, phê bình văn học, tập một, tác giả Nguyễn Thanh, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 2023. Mã số ISBN: 978-604-391-519-8.
… .
Bìa sách ĐI TÌM HƯƠNG SẮC VĂN CHƯƠNG
Nguyễn Thanh có tư chất nhà trí thức lớn của Nam Bộ ở phương diện tư duy phản biện, cụ thể: viết về danh nhân đúng, minh bạch và ông không viết một chiều, mà đưa ra một số góc nhìn cho độc giả, ta gọi là tư duy phản biện. Không như một số nhà phê bình văn học viết những lý luận cao siêu, khó hiểu để chủ yếu khoe hiểu biết, trong các bài phê bình văn học của mình, Nguyễn Thanh lồng ghép vào những kiến thức văn hóa đông tây kim cổ có liên quan đến tác giả, tác phẩm để nâng tầm hiểu biết của mình và qua đó mài giũa thêm tiêu chí văn học phải vì con người có các tố chất chân thiện mỹ.
Nhà văn Nguyễn Thanh (bìa trái) tặng sách cho Đại tá - nhà văn Khuất Quang Thụy – Tổng biên tập Báo Văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam. Ảnh Lê Thanh Huệ.
Sài Gòn, tháng 10 năm 2023
Ghi chú: Các chữ viết xiên là trích nguyên văn một đoạn trong tác phẩm của Nhà văn Nguyễn Thanh.
Mời xem kỳ 1: TÌM ĐƯỜNG ĐI CHO NHỮNG HẠT PHÙ SA
[1] Kỳ 1, xem TÌM ĐƯỜNG ĐI CHO NHỮNG HẠT PHÙ SA trang 44 “Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam” số 6 (bộ mới) ra ngày 25/9/2023.
[2] Tập thơ và thơ phổ nhạc THÌ THẦM VỚI DÒNG SÔNG – tác giả Hoài Vũ, - Nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 2023. Mã số ISBN: 978-604-391-609-6.
[3] WORDSWORTH – TIẾNG THƠ MIỀN CỎ HOA SÔNG NƯỚC – trang 122 - ĐI TÌM HƯƠNG SẮC VĂN CHƯƠNG, phê bình văn học, tập một, tác giả Nguyễn Thanh, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 2023. Mã số ISBN: 978-604-391-519-8.
[4] GUILLAUME APOLLINAIRE – ÔNG HOÀNG THƠ TÌNH PHÁP – trang 122 - ĐI TÌM HƯƠNG SẮC VĂN CHƯƠNG, phê bình văn học, tập một, tác giả Nguyễn Thanh, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 2023. Mã số ISBN: 978-604-391-519-8.
[5] VICH TO HUGO – TƯỢNG ĐÀI VĂN HỌC PHÁP – trang 222 - ĐI TÌM HƯƠNG SẮC VĂN CHƯƠNG, phê bình văn học, tập một, tác giả Nguyễn Thanh, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 2023. Mã số ISBN: 978-604-391-519-8.
[6] W.GOETHE – ĐỈNH CAO THI CA ĐỨC – trang 199 - ĐI TÌM HƯƠNG SẮC VĂN CHƯƠNG, phê bình văn học, tập một, tác giả Nguyễn Thanh, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 2023. Mã số ISBN: 978-604-391-519-8.
[7] CHUYỆN THƠ – tác giả Tố Hữu.
[8] HỒ CHỦ TỊCH – KHỞI SẮC MỘT PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT VĂN CHƯƠNG – trang 11 - ĐI TÌM HƯƠNG SẮC VĂN CHƯƠNG, phê bình văn học, tập một, tác giả Nguyễn Thanh, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 2023. Mã số ISBN: 978-604-391-519-8.