TIN TỨC

Người tạc tượng đài Cha – Mẹ bằng ca dao

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-01 16:18:58
mail facebook google pos stwis
972 lượt xem

NGUYÊN BÌNH

(Đọc tác phẩm Mùa Thu nắng khóc của Phạm Đức Mạnh)

Cầm thi phẩm MÙA THU NẮNG KHÓC, (NXB HNV, 2022 ) trong tay, bồi hồi mở ra rồi gấp lại nhiều lần, lòng tôi cứ bần thần, rơm rớm. Bởi, nêm chặt từng trang sách là hình ảnh Cha - Mẹ cùng với tấm lòng hiếu thảo vô bờ được anh chắt từ trong trái tim yêu thương sâu nặng, chảy thành những dòng thơ chan hòa theo dòng tâm tư tôi, một kẻ tha phương cứ mãi lần ngóng một ngày trở về. Hình tượng ấy cứ lớn dần lên, lớn dần lên để rồi trong giây phút cảm hứng dâng trào, tôi đã thốt lên: “phải chăng đây là tượng đài hình tượng Mẹ - Cha trong thi ca Việt đương đại? 

Có thể nói ngay rằng, hiếm có nhà thơ nào dành trọn toàn bộ tác phẩm cho những bài thơ viết về Cha - Mẹ như trong MTNK của nhà thơ Phạm Đức Mạnh. Qua lời tâm sự đầy xúc động của anh, tác phẩm được thai nghén 25 năm ròng rã, kể từ ngày Mẹ rời xa trần thế, để lại đứa con côi hiếu thảo bơ bơ như chiếc thuyền nan trôi dạt giữa dòng đời bão tố. Mùa thu năm ấy, sợi nắng rưng rưng, mùa thu năm ấy, cõi lòng anh chết lặng khi người Mẹ dấu yêu bỏ anh mà về nơi cõi Phật. Và mùa thu ấy, MÙA THU NẮNG KHÓC, nắng thu vàng úa giao cảm nỗi bi thương cùng với giọt lệ lăn dài trên khóe mắt đứa con côi hiếu thảo. Với một trăm lẻ hai bài thơ, tác giả chừng như muốn gởi gắm cùng chúng ta thông điệp CÓ MỘT KHÔNG HAI trong dòng thơ TÂM TƯỞNG dành riêng cho song thân đã đi xa. Ẩn chứa dưới nhiều tầng cảm xúc trong từng trang sách thơm mùi đạo hiếu, tác giả ký thác nỗi niềm thương Cha nhớ Mẹ như một sự chuyển giao sứ mệnh cao cả này cho Thơ, với lời bộc bạch: “Câu thơ dành khóc thay tôi”. Vâng, giọt lệ đầm đìa trong thơ anh là tiếng lòng quặn thắt của đứa con côi, “đêm đêm ngồi lau vầng trăng phủ nỗi sầu riêng”, ngày lại ngày canh cánh ước mong trở về với quê hương thuở thiếu thời, nhóm lên ngọn lửa vào một sớm mùa Thu “Ta về luộc cả vườn đau”.

Nhà thơ trút hết tâm lực, thi lực vào hình ảnh Mẹ - Cha với kỉ niệm êm đềm của thời ấu thơ dấu yêu mà khốn khó, lấy đó làm không gian nền của tác phẩm. Cuộc đời và số phận những người nông dân hiền lương thuần hậu trong những năm 60,70 của vùng đồng bằng sông Hồng được anh tái hiện chân thực như không thể nào chân thực hơn. Bằng khối chất liệu thơ dung dị, chủ yếu là lục bát thấm đẫm hồn dân tộc, nhà thơ PĐM cần mẫn khắc tạc tượng đài vĩnh cửu về Mẹ - Cha trong tâm thức Việt. Hình tượng Mẹ với “tấm thân  hao gầy” là một nguyên khối đơn sơ mộc mạc, và theo tôi, hình khối đơn sơ ấy lại mang tính biểu trưng cao, là hình ảnh chung nhất của bất kỳ người mẹ Việt Nam nào:

Gồng đời tát bể trầm luân

Càng làm cho Mẹ tấm thân hao gầy

(Xuân buồn)

Trên khối tượng đài ấy, bàn tay tài hoa của nhà thơ tạc những nếp nhăn huyền thoại trên gương mặt Mẹ - Cha, những nếp nhăn thế kỷ hằn sâu trong ký ức tác giả, ký ức dân tộc, đã trở thành hình tượng tiêu biểu của thời đại mà theo tôi, các nhạc sĩ, nhà điêu khắc, hội họa, nhiếp ảnh nào cũng khó có thể làm khác hơn:

Đó là nếp nhăn Mẹ đổi tuổi thanh xuân

Nuốt nước mắt vào trong nuôi con khôn lớn

Để nụ cười con sáng

Vô vàng những đường  nhăn ngắn dài không hình dáng

Là nỗi suy tư cho con được thành người.

(Nếp nhăn cười)

Hình ảnh người cha trong khối tượng đài ấy là một người nông dân kiên trì chịu nhận, suốt đời cặm cụi lao nhọc mưu sinh với những giây phút lặng lẽ suy tư, tay vân vê “Hạt thóc nhổ râu”. Tác giả không biểu trưng hóa, nghệ thuật hóa hình tượng Cha như là một khuôn mẫu lý tưởng khiến mảng hình khối thô ráp giản dị, mà vô cùng gần gủi với hơi thở của sự sống:

Vê vê hạt thóc ngâm sầu

Cha ngồi dỗ tủi nhổ râu cho mình…

(Hạt thóc nhổ râu)

Càng đi sâu vào tập thơ, ta như được tác giả đưa trở về với không gian hoài niệm của vùng quê Nam Định phì nhiêu với đa tầng văn hóa lúa nước. Sau lũy tre làng êm ả, cuộc sống giản dị của thôn dân hồn hậu quyện hòa với văn hóa làng xã tiềm tàng trong từng nếp nghĩ, với cây đa rợp bóng ao làng, mái đình rêu phong cổ kính, và mùi hương cổ tích thơm lừng từ chiếc bánh kê đa đỏng đảnh trong chiếc thúng mẹ đội đầu đi về mỗi buổi chợ chiều, tất cả đó tạo thành cái thần hồn của tác phẩm:

Mặt trời săm soi chiếc thúng gầy mẹ đội. Những tia nắng non nhảy mũi liên hồi

Chắc bánh đa kê tròn vành nguyên chiếc. Phết nụ cười thơm không ỉu lệ đời.

Thương cha mẹ một kiếp người khốn khó. Chỉ mong tôi được học làm người. Sao tôi quên những tháng ngày cổ tích. Dìu tôi lớn lên từ những giọt lệ cười.

(Gọi dòng sông)

Cổ tích là vậy, nhưng tác giả không có ý đồ thi vị hóa vùng đất nơi anh sinh ra và lớn lên, nơi đong đầy những dấu ấn nhọc nhằn khó phai. Bao nhiêu lao khổ  được tác giả hồi tưởng và tái hiện sinh động bằng những câu thơ chân thực đến quặn thắt lòng người đọc:

Cột trâu mò vạc lẹm bờ

Liềm cùn bào cỏ tay đơ rộp phồng

Chìa lưng chống chọi gió chông

Vẫn không ghìm nổi bão giông vặn đời

(Khóc tủi)

Hình ảnh tấm thân hao gầy mùa lại mùa “nách kẹp thúng thóc xệ vẹo hông” khi Mẹ rê thóc là một bức tranh đậm đặc chất liệu sống nơi thôn dã, thân quen như hơi thở với những ai đã từng sinh ra và lớn lên ở một vùng quê:

Kẹp thúng thóc xệ vẹo hông

Mẹ rê em quạt mênh mông giữa trời

Hạt buồn gió cuốn tả tơi

Hạt thương cột giữ mảnh đời lao đao.

(Rê thóc)

Trong gian khổ lao nhọc như vậy, Mẹ vẫn rạng ngời phẩm chất cao quý của một người Mẹ hiền lương, với tấm lòng son suốt đời chân chất, tận tụy hy sinh, cho đi mà không hề nghĩ nhận lấy, tấm lòng son sắt chưa hề manh nha một điều giả dối là gì:

Chưa một lần Mẹ nghĩ điều giả dối

Để có ai được ghét Mẹ một lần

Giữa trần gian vẫn hai bàn tay trắng

Cũng chỉ vì Mẹ cho hết người thân

(Mẹ tin con)

Không những thế, lời ru của mẹ trên tao nôi từng ngày là một quá trình gíao huấn nghiêm cẩn, Mẹ ru hời đong đưa vỗ về tâm hồn đứa con với niềm tin mai này lớn lên, trái tim con trai Mẹ bao dung như biển cả, chứa chan tình yêu quê hương đất nước:

Con ơi uống tiếng ầu ơ

Đừng quên đời mẹ chắt từ khổ đau

Quê hương giặc giã hai đầu

Đó nghèo mất mát san nhau tình người

Mẹ mong con lớn lên rồi

Con đi sẽ hiểu biển trời nước non.

(Lời mẹ)

Tâm tư héo mòn của đứa con bơ vơ xa quê là một mảng chủ đạo trong thi tập MTNK bên cạnh hình tượng song thân đấy ắm ắp trong trái tim anh. Ở đây, tác giả có một không gian rộng lớn, một thời gian hun hút để giải bày nỗi đau xót của mình khi vời trông về quê cũ từ cuộc sống nơi đất khách bằng những câu thơ trích từ máu thịt:

Con giờ mặc kiếp bơ vơ

Mảnh đời cũ rích xác xơ pha màu

(Tôi vá áo cho tôi)

Hình ảnh Cha - Mẹ luôn hiện hữu trong tâm thức anh, cứ vơi đầy đầy vơi trong từng giấc ngủ, trong mỗi nhịp võng đong đưa níu kéo tâm hồn nhà thơ trở về ngôi nhà xưa nay đã vắng bóng mẹ hiền, ôi, nhớ thương sao mà triền iên da diết thế?

Mơ màng võng ảo đong đưa

Ngôi nhà vắng mẹ lưa thưa tiếng cười

(Sắc thu ngây dại)

Trong suốt hai mươi lăm năm, nhà thơ không ít lần tự dằn vặt mình, bất lực trước ước mơ nhỏ bé của đời mẹ. Khi đọc đến bài “Mãi nợ điều mẹ ước”, tôi thực sự rơm rớm nước mắt, vì chính tôi năm nào lên đường đi thực tập, mạ tôi đã thầm lặng gỡ đôi bông tai bán lấy tiền làm lộ phí cho tôi bước về phía tương lai. Còn nhà thơ Phạm Đức Mạnh lúc cảm nhận được Mẹ chép miệng ước mơ một đôi bông tai chỉ là một anh binh nhì nên chỉ biết nuốt nước mắt vào trong với nỗi nghẹn ngào bất lực. Ôi, niềm ước mơ nhỏ nhoi của Mẹ chính là niềm mong ước chân thật mang nặng hoài bão, triết lý sống của bao nhiêu người mẹ Việt Nam lớn lên trong nghèo khó:  

Mẹ ước đôi bông tai

Lính binh nhì làm sao mua được

Thời lẫn lộn vàng thau

Nhiều người xài tiền như nước

Con, lính trơn ôm ngọn gió đời….

 

Dái tai trống khô xuyên que tăm bỏ ngỏ

Nước mắt ngược dòng lạnh buốt tim con

(Mãi nợ điều mẹ ước)

Nhà thơ cũng đã không biết bao nhiêu lần nhắc đến món “Nợ cha năm roi” và niềm thương tiếc Cha biến thành một lời hứa “thương cha và tự ngoan” bé bỏng làm sao. Chúng ta hãy đọc thơ và suy gẫm niềm thương mến bao la cứ mãi dày vò tâm hồn anh:

Nợ âm ỉ nỗi đau

Không được cha đánh nữa

Giờ chỉ còn lời hứa

Thương cha và tự ngoan…

 

Có bới tung trời người

Làm gì còn roi nhớ

Làm gì còn roi nợ

Để dành thành roi thương

(Nợ cha năm roi)

Bao nhiêu kỉ niệm ngọt ngào của một thời thơ ấu đói nghèo cứ hiện hữu trong thơ anh, thiếu thốn mà dấu yêu biết bao, nhà thơ làm nhân chứng và hạnh phúc khi được sống trong thiếu thốn như vậy cùng với gia đình, dù có “đánh đổi cả tiền đồ” thì anh vẫn ung dung chấp nhận. Thật là một tấm gương hiếu thảo hiếm hoi trong thời đại 4.0, khác nào các nhân vật trong “nhị thập tứ hiếu”:

Bữa nào nghe mẹ xào rau

Anh em nhấp nhổm ngó nhau ngoan thầm

Em trải chiếu anh bày mâm

Dỗ cơn đau đói cố cầm cự thêm

 

Thời gian nín lặng trôi êm

Bửa ăn trộn nắng, độn đêm, đậy nghèo

Lưa thưa tóp mỡ tí teo

Đủ làm nước miếng ứa keo, nghẹn mừng.

(Tóp mỡ)

Và, đây là bài thơ MÙA THU NẮNG KHÓC  là một tuyệt phẩm của cảm xúc dâng trào khi nhà thơ về thăm mộ Mẹ:

Nâng niu làn gió

Hái đóa hương đồng

Cài lên mộ Mẹ

Thơm trời mênh mông.

 

Mẹ nằm trong nhớ

Trái tim tình làng

Mùa thu nắng khóc

Thương chiều lang thang.

 

Con xa quê mãi

Đời cũng bạc rồi

Đường trần nghiệt ngã

Đắng hồn mồ côi.

(Mùa thu nắng khóc)

Giờ đây, dù đã thành đạt với cuộc sống đủ đầy nơi thành phố hoa lệ, trở thành một nhà báo, một nhà thơ, với tuổi đời ngoài sáu mươi, nhà thơ hiếu thảo PĐM vẫn canh cánh bên lòng cảm giác đói khát tình thương yêu của Cha Mẹ, thúc đẩy hồn thơ anh tuôn chảy thành dòng lệ nóng, rơm rớm cảm xúc, khiến trái tim tôi xao xác bồi hồi:  

Vượt qua cám dỗ bờ mê

Đêm đêm ngăn lệ tỉ tê với đời

Nổi chìm trong kiếp chơi vơi

Miên man cơn sốt thèm lời mẹ ru.

(Ngăn lệ)

Đâu rồi chổ cũ ta nằm

Ổ rơm gối lá chè trầm sắc quê

Bãi bồi sông tỉnh cơn mê

Ước mơ đỏ ngậy triền đê sông Hồng

(Cho tan cơn khát)

Thực lòng, nếu viết ra được tất cả xúc cảm khi đọc tập thơ MÙA THU NẮNG KHÓC thì bài viết không dừng lại ở đây. Có thể nói, MTNK vừa là một tượng đài hiếu nghĩa, vừa là một tác phẩm thi ca in đậm dấu ấn nhân cách làm người của nhà thơ. Chúc nhà thơ PĐM giữ lấy đạo hiếu muôn đời này trong trái tim anh, chúc anh an vui khi đối mặt với cuộc sống ồn ào bon chen quanh mình để sáng tác những vần thơ hay, góp mặt với nền văn chương đương đại.

Bà Rịa, ngày 30/6/2022.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người làm lệch nhịp thời gian
Nếu những tập thơ trước đây của Nguyễn Quang Thiều tựa như dòng sông cuộn xiết vào mùa hạ, mang bao khát vọng, nỗi trăn trở réo gào khi chảy qua những khúc quanh, ghềnh đá..., thì đến Nhật ký người xem đồng hồ (NXB Hội Nhà văn, 2023) vừa xuất bản, người đọc được chứng kiến một dòng sông đang tan băng vào cuối xuân, song hành cùng những biến động của cuộc sống đương đại. Dòng sông ấy cuốn đi, đôi lúc phát ra tiếng nổ của những tảng băng bị rạn nứt. Từ vết nứt sắc lạnh và tối giản của ngôn từ trong tập thơ này, ta bỗng nhìn thấy những hình ảnh, tứ thơ lạ lẫm, tuyệt đẹp hiện ra trong những khoảnh khắc ngổn ngang, lo đâu, đầy bất an của đời sống thường nhật.
Xem thêm
Tần Hoài Dạ Vũ – Người thầy mẫu mực đất Quảng
Tần Hoài Dạ Vũ – nhà thơ, nhà báo, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian…xin được gọi ông là nhà nào đây ạ? Tần Hoài Dạ Vũ cười hiền lành, đầy khiêm tốn: “Cứ gọi tôi nhà giáo là được rồi!”. Người tôi nói đến, đó chính là thầy giáo Nguyễn Văn Bổn (bút danh Tần Hoài Dạ Vũ).
Xem thêm
Văn truyện của Phạm Ngọc Dũ - Cảm xúc chân thành và đầy tính nhân văn
Trước khi khai thác về văn truyện của anh, tôi xin giới thiệu đôi dòng về nhà văn Phạm Ngọc Dũ: Phạm Ngọc Dũ sinh năm 1957 tại Quảng Ngãi, hiện sống và viết tại tp HCM, Hội viên Hội Nhà văn TPHCM. Anh hiện đang là chủ biên của Tạp san Sông Quê.
Xem thêm
Dấu chân thơ – những thiên du ký bằng thơ sâu lắng ngọt ngào
Bài viết của nhà thơ Phố Giang, hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Cuộc du ngoạn bằng thơ đầy cảm xúc
“NHỮNG DẤU CHÂN THƠ” Là tập thơ thứ Ba của tác giả Trần Kim Dung do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành vào đầu tháng Sáu năm 2023.
Xem thêm
‘Mười năm một quãng đường người xót xa’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập Thơ mười năm của Hoàng Đình Quang, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Dòng ban mai trong thơ Trần Hùng
Tập thơ Mắt mắt khuya từng đàn (NXB Hội Nhà văn, 2023) của Trần Hùng dẫn tôi vào một sớm đang tan sương, có thể ứng với bất kỳ mùa nào trong năm. Khi ấy hừng đông đã rạng, sưởi ấm cho khắp miền không gian nơi con người cùng vạn vật vừa thức dậy. Một ban mai không ngưng đọng mà dịch chuyển, cuộn chảy trong bầu không khí thanh sạch, tinh khôi. Dòng chảy ấy khai mở một ngày mới trong tâm tưởng bạn đọc, bảng lảng, đột sáng và trong suốt.
Xem thêm
Đại thi hào Nga Pushkin – Một thời để yêu, một thời để chết
Cái chết bi thảm của đại thi hào Nga Aleksandr Pushkin cách đây gần 200 năm sau cuộc quyết đấu bên bờ sông Đen (thuộc ngoại ô Peterburg) đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trong công chúng, đồng thời đổ ập lên đầu Natalya – vợ ông – biết bao điều tiếng…
Xem thêm
Hành trình văn học Nga ở Việt Nam: Dòng chảy không đứt đoạn
Quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô (nay là Liên bang Nga) và Việt Nam được chính thức xác lập từ ngày 30/1/1950 song mối quan hệ văn chương Nga – Việt đã hình thành từ trước đó rất lâu, dưới hai hình thức: sự giao lưu văn hóa và sự tiếp nhận của những người cộng sản Việt Nam từ nền văn hóa, văn học Nga. Đi suốt thế kỷ XX và ở những năm đầu thế kỷ XIX, tuy có những lúc thăng trầm, song mối quan hệ văn chương ấy chưa bao giờ đứt đoạn!
Xem thêm
Triết lý nhân sinh trong cảm thức thơ của Hoàng Vũ Thuật
Đối với thi sĩ, cái tôi trữ tình phần nào đại diện cho những kiếp nhân sinh mà họ quan sát, gặp gỡ và cảm tưởng. Con người thi ca tìm thấy và chịu đựng được khổ đau của mình, nhưng không chịu đựng được khổ đau của nhân loại. Họ cất tiếng thay cho nhân loại, bằng trái tim đã thấm thía những nỗi đời riêng.
Xem thêm
Vàng của tâm hồn, vàng của văn chương
Bài viết của nhà văn Ngô Xuân Hội về nhà văn Nguyễn Trí
Xem thêm
Bùi Giáng - Người chưa bao giờ già
Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.
Xem thêm
Từ khải ca họa mi đến thực mơ giữa đôi bờ chùa – chợ!...
Bài bình 2 bài thơ của doanh nhân - nhà thơ Trương Vạn Thành.
Xem thêm
“Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao
Sau ca khúc “Tiến về Hà Nội” đúng 26 năm, vào mùa xuân 1976, nhạc sĩ thiên tài Văn Cao khi có dịp vào TP.HCM, ông lại sáng tác ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”, viết về những cảm xúc tràn ngập tâm hồn ông trong “mùa xuân đầu tiên” sau khi nước nhà hòa bình thống nhất.
Xem thêm
Người nữ và con đường tình yêu trong Đối thoại đêm
Đọc Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan, NXB Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Đào Phong Lan - hồn thơ vẫn mềm như cỏ
Tham luận của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn đọc tại buổi ra mắt tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt”
Xem thêm
Nhà văn Trịnh Minh Hiếu và “Giấc cỏ dụ”
Cách đây tròn 10 năm, năm 2013, Trịnh Minh Hiếu ra mắt tập truyện ngắn đầu tay “Tiếng chuông trên đỉnh Cô Thình” (NXB Hội Nhà văn 2013). Tròn một năm sau, chị lại cho ra mắt tập truyện ngắn thứ hai mang tên “Thúy Mầu” (NXB Hội Nhà văn 2014). Hai tập truyện ngắn có cá tính riêng của chị ngày ấy khuấy động làng văn chương không ít.
Xem thêm