TIN TỨC

Người tạc tượng đài Cha – Mẹ bằng ca dao

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-01 16:01:51
mail facebook google pos stwis
2019 lượt xem

NGUYÊN BÌNH

(Đọc tác phẩm Mùa Thu nắng khóc của Phạm Đức Mạnh)

Cầm thi phẩm MÙA THU NẮNG KHÓC, (NXB HNV, 2022 ) trong tay, bồi hồi mở ra rồi gấp lại nhiều lần, lòng tôi cứ bần thần, rơm rớm. Bởi, nêm chặt từng trang sách là hình ảnh Cha - Mẹ cùng với tấm lòng hiếu thảo vô bờ được anh chắt từ trong trái tim yêu thương sâu nặng, chảy thành những dòng thơ chan hòa theo dòng tâm tư tôi, một kẻ tha phương cứ mãi lần ngóng một ngày trở về. Hình tượng ấy cứ lớn dần lên, lớn dần lên để rồi trong giây phút cảm hứng dâng trào, tôi đã thốt lên: “phải chăng đây là tượng đài hình tượng Mẹ - Cha trong thi ca Việt đương đại? 

Có thể nói ngay rằng, hiếm có nhà thơ nào dành trọn toàn bộ tác phẩm cho những bài thơ viết về Cha - Mẹ như trong MTNK của nhà thơ Phạm Đức Mạnh. Qua lời tâm sự đầy xúc động của anh, tác phẩm được thai nghén 25 năm ròng rã, kể từ ngày Mẹ rời xa trần thế, để lại đứa con côi hiếu thảo bơ bơ như chiếc thuyền nan trôi dạt giữa dòng đời bão tố. Mùa thu năm ấy, sợi nắng rưng rưng, mùa thu năm ấy, cõi lòng anh chết lặng khi người Mẹ dấu yêu bỏ anh mà về nơi cõi Phật. Và mùa thu ấy, MÙA THU NẮNG KHÓC, nắng thu vàng úa giao cảm nỗi bi thương cùng với giọt lệ lăn dài trên khóe mắt đứa con côi hiếu thảo. Với một trăm lẻ hai bài thơ, tác giả chừng như muốn gởi gắm cùng chúng ta thông điệp CÓ MỘT KHÔNG HAI trong dòng thơ TÂM TƯỞNG dành riêng cho song thân đã đi xa. Ẩn chứa dưới nhiều tầng cảm xúc trong từng trang sách thơm mùi đạo hiếu, tác giả ký thác nỗi niềm thương Cha nhớ Mẹ như một sự chuyển giao sứ mệnh cao cả này cho Thơ, với lời bộc bạch: “Câu thơ dành khóc thay tôi”. Vâng, giọt lệ đầm đìa trong thơ anh là tiếng lòng quặn thắt của đứa con côi, “đêm đêm ngồi lau vầng trăng phủ nỗi sầu riêng”, ngày lại ngày canh cánh ước mong trở về với quê hương thuở thiếu thời, nhóm lên ngọn lửa vào một sớm mùa Thu “Ta về luộc cả vườn đau”.

Nhà thơ trút hết tâm lực, thi lực vào hình ảnh Mẹ - Cha với kỉ niệm êm đềm của thời ấu thơ dấu yêu mà khốn khó, lấy đó làm không gian nền của tác phẩm. Cuộc đời và số phận những người nông dân hiền lương thuần hậu trong những năm 60,70 của vùng đồng bằng sông Hồng được anh tái hiện chân thực như không thể nào chân thực hơn. Bằng khối chất liệu thơ dung dị, chủ yếu là lục bát thấm đẫm hồn dân tộc, nhà thơ PĐM cần mẫn khắc tạc tượng đài vĩnh cửu về Mẹ - Cha trong tâm thức Việt. Hình tượng Mẹ với “tấm thân  hao gầy” là một nguyên khối đơn sơ mộc mạc, và theo tôi, hình khối đơn sơ ấy lại mang tính biểu trưng cao, là hình ảnh chung nhất của bất kỳ người mẹ Việt Nam nào:

Gồng đời tát bể trầm luân

Càng làm cho Mẹ tấm thân hao gầy

(Xuân buồn)

Trên khối tượng đài ấy, bàn tay tài hoa của nhà thơ tạc những nếp nhăn huyền thoại trên gương mặt Mẹ - Cha, những nếp nhăn thế kỷ hằn sâu trong ký ức tác giả, ký ức dân tộc, đã trở thành hình tượng tiêu biểu của thời đại mà theo tôi, các nhạc sĩ, nhà điêu khắc, hội họa, nhiếp ảnh nào cũng khó có thể làm khác hơn:

Đó là nếp nhăn Mẹ đổi tuổi thanh xuân

Nuốt nước mắt vào trong nuôi con khôn lớn

Để nụ cười con sáng

Vô vàng những đường  nhăn ngắn dài không hình dáng

Là nỗi suy tư cho con được thành người.

(Nếp nhăn cười)

Hình ảnh người cha trong khối tượng đài ấy là một người nông dân kiên trì chịu nhận, suốt đời cặm cụi lao nhọc mưu sinh với những giây phút lặng lẽ suy tư, tay vân vê “Hạt thóc nhổ râu”. Tác giả không biểu trưng hóa, nghệ thuật hóa hình tượng Cha như là một khuôn mẫu lý tưởng khiến mảng hình khối thô ráp giản dị, mà vô cùng gần gủi với hơi thở của sự sống:

Vê vê hạt thóc ngâm sầu

Cha ngồi dỗ tủi nhổ râu cho mình…

(Hạt thóc nhổ râu)

Càng đi sâu vào tập thơ, ta như được tác giả đưa trở về với không gian hoài niệm của vùng quê Nam Định phì nhiêu với đa tầng văn hóa lúa nước. Sau lũy tre làng êm ả, cuộc sống giản dị của thôn dân hồn hậu quyện hòa với văn hóa làng xã tiềm tàng trong từng nếp nghĩ, với cây đa rợp bóng ao làng, mái đình rêu phong cổ kính, và mùi hương cổ tích thơm lừng từ chiếc bánh kê đa đỏng đảnh trong chiếc thúng mẹ đội đầu đi về mỗi buổi chợ chiều, tất cả đó tạo thành cái thần hồn của tác phẩm:

Mặt trời săm soi chiếc thúng gầy mẹ đội. Những tia nắng non nhảy mũi liên hồi

Chắc bánh đa kê tròn vành nguyên chiếc. Phết nụ cười thơm không ỉu lệ đời.

Thương cha mẹ một kiếp người khốn khó. Chỉ mong tôi được học làm người. Sao tôi quên những tháng ngày cổ tích. Dìu tôi lớn lên từ những giọt lệ cười.

(Gọi dòng sông)

Cổ tích là vậy, nhưng tác giả không có ý đồ thi vị hóa vùng đất nơi anh sinh ra và lớn lên, nơi đong đầy những dấu ấn nhọc nhằn khó phai. Bao nhiêu lao khổ  được tác giả hồi tưởng và tái hiện sinh động bằng những câu thơ chân thực đến quặn thắt lòng người đọc:

Cột trâu mò vạc lẹm bờ

Liềm cùn bào cỏ tay đơ rộp phồng

Chìa lưng chống chọi gió chông

Vẫn không ghìm nổi bão giông vặn đời

(Khóc tủi)

Hình ảnh tấm thân hao gầy mùa lại mùa “nách kẹp thúng thóc xệ vẹo hông” khi Mẹ rê thóc là một bức tranh đậm đặc chất liệu sống nơi thôn dã, thân quen như hơi thở với những ai đã từng sinh ra và lớn lên ở một vùng quê:

Kẹp thúng thóc xệ vẹo hông

Mẹ rê em quạt mênh mông giữa trời

Hạt buồn gió cuốn tả tơi

Hạt thương cột giữ mảnh đời lao đao.

(Rê thóc)

Trong gian khổ lao nhọc như vậy, Mẹ vẫn rạng ngời phẩm chất cao quý của một người Mẹ hiền lương, với tấm lòng son suốt đời chân chất, tận tụy hy sinh, cho đi mà không hề nghĩ nhận lấy, tấm lòng son sắt chưa hề manh nha một điều giả dối là gì:

Chưa một lần Mẹ nghĩ điều giả dối

Để có ai được ghét Mẹ một lần

Giữa trần gian vẫn hai bàn tay trắng

Cũng chỉ vì Mẹ cho hết người thân

(Mẹ tin con)

Không những thế, lời ru của mẹ trên tao nôi từng ngày là một quá trình gíao huấn nghiêm cẩn, Mẹ ru hời đong đưa vỗ về tâm hồn đứa con với niềm tin mai này lớn lên, trái tim con trai Mẹ bao dung như biển cả, chứa chan tình yêu quê hương đất nước:

Con ơi uống tiếng ầu ơ

Đừng quên đời mẹ chắt từ khổ đau

Quê hương giặc giã hai đầu

Đó nghèo mất mát san nhau tình người

Mẹ mong con lớn lên rồi

Con đi sẽ hiểu biển trời nước non.

(Lời mẹ)

Tâm tư héo mòn của đứa con bơ vơ xa quê là một mảng chủ đạo trong thi tập MTNK bên cạnh hình tượng song thân đấy ắm ắp trong trái tim anh. Ở đây, tác giả có một không gian rộng lớn, một thời gian hun hút để giải bày nỗi đau xót của mình khi vời trông về quê cũ từ cuộc sống nơi đất khách bằng những câu thơ trích từ máu thịt:

Con giờ mặc kiếp bơ vơ

Mảnh đời cũ rích xác xơ pha màu

(Tôi vá áo cho tôi)

Hình ảnh Cha - Mẹ luôn hiện hữu trong tâm thức anh, cứ vơi đầy đầy vơi trong từng giấc ngủ, trong mỗi nhịp võng đong đưa níu kéo tâm hồn nhà thơ trở về ngôi nhà xưa nay đã vắng bóng mẹ hiền, ôi, nhớ thương sao mà triền iên da diết thế?

Mơ màng võng ảo đong đưa

Ngôi nhà vắng mẹ lưa thưa tiếng cười

(Sắc thu ngây dại)

Trong suốt hai mươi lăm năm, nhà thơ không ít lần tự dằn vặt mình, bất lực trước ước mơ nhỏ bé của đời mẹ. Khi đọc đến bài “Mãi nợ điều mẹ ước”, tôi thực sự rơm rớm nước mắt, vì chính tôi năm nào lên đường đi thực tập, mạ tôi đã thầm lặng gỡ đôi bông tai bán lấy tiền làm lộ phí cho tôi bước về phía tương lai. Còn nhà thơ Phạm Đức Mạnh lúc cảm nhận được Mẹ chép miệng ước mơ một đôi bông tai chỉ là một anh binh nhì nên chỉ biết nuốt nước mắt vào trong với nỗi nghẹn ngào bất lực. Ôi, niềm ước mơ nhỏ nhoi của Mẹ chính là niềm mong ước chân thật mang nặng hoài bão, triết lý sống của bao nhiêu người mẹ Việt Nam lớn lên trong nghèo khó:  

Mẹ ước đôi bông tai

Lính binh nhì làm sao mua được

Thời lẫn lộn vàng thau

Nhiều người xài tiền như nước

Con, lính trơn ôm ngọn gió đời….

 

Dái tai trống khô xuyên que tăm bỏ ngỏ

Nước mắt ngược dòng lạnh buốt tim con

(Mãi nợ điều mẹ ước)

Nhà thơ cũng đã không biết bao nhiêu lần nhắc đến món “Nợ cha năm roi” và niềm thương tiếc Cha biến thành một lời hứa “thương cha và tự ngoan” bé bỏng làm sao. Chúng ta hãy đọc thơ và suy gẫm niềm thương mến bao la cứ mãi dày vò tâm hồn anh:

Nợ âm ỉ nỗi đau

Không được cha đánh nữa

Giờ chỉ còn lời hứa

Thương cha và tự ngoan…

 

Có bới tung trời người

Làm gì còn roi nhớ

Làm gì còn roi nợ

Để dành thành roi thương

(Nợ cha năm roi)

Bao nhiêu kỉ niệm ngọt ngào của một thời thơ ấu đói nghèo cứ hiện hữu trong thơ anh, thiếu thốn mà dấu yêu biết bao, nhà thơ làm nhân chứng và hạnh phúc khi được sống trong thiếu thốn như vậy cùng với gia đình, dù có “đánh đổi cả tiền đồ” thì anh vẫn ung dung chấp nhận. Thật là một tấm gương hiếu thảo hiếm hoi trong thời đại 4.0, khác nào các nhân vật trong “nhị thập tứ hiếu”:

Bữa nào nghe mẹ xào rau

Anh em nhấp nhổm ngó nhau ngoan thầm

Em trải chiếu anh bày mâm

Dỗ cơn đau đói cố cầm cự thêm

 

Thời gian nín lặng trôi êm

Bửa ăn trộn nắng, độn đêm, đậy nghèo

Lưa thưa tóp mỡ tí teo

Đủ làm nước miếng ứa keo, nghẹn mừng.

(Tóp mỡ)

Và, đây là bài thơ MÙA THU NẮNG KHÓC  là một tuyệt phẩm của cảm xúc dâng trào khi nhà thơ về thăm mộ Mẹ:

Nâng niu làn gió

Hái đóa hương đồng

Cài lên mộ Mẹ

Thơm trời mênh mông.

 

Mẹ nằm trong nhớ

Trái tim tình làng

Mùa thu nắng khóc

Thương chiều lang thang.

 

Con xa quê mãi

Đời cũng bạc rồi

Đường trần nghiệt ngã

Đắng hồn mồ côi.

(Mùa thu nắng khóc)

Giờ đây, dù đã thành đạt với cuộc sống đủ đầy nơi thành phố hoa lệ, trở thành một nhà báo, một nhà thơ, với tuổi đời ngoài sáu mươi, nhà thơ hiếu thảo PĐM vẫn canh cánh bên lòng cảm giác đói khát tình thương yêu của Cha Mẹ, thúc đẩy hồn thơ anh tuôn chảy thành dòng lệ nóng, rơm rớm cảm xúc, khiến trái tim tôi xao xác bồi hồi:  

Vượt qua cám dỗ bờ mê

Đêm đêm ngăn lệ tỉ tê với đời

Nổi chìm trong kiếp chơi vơi

Miên man cơn sốt thèm lời mẹ ru.

(Ngăn lệ)

Đâu rồi chổ cũ ta nằm

Ổ rơm gối lá chè trầm sắc quê

Bãi bồi sông tỉnh cơn mê

Ước mơ đỏ ngậy triền đê sông Hồng

(Cho tan cơn khát)

Thực lòng, nếu viết ra được tất cả xúc cảm khi đọc tập thơ MÙA THU NẮNG KHÓC thì bài viết không dừng lại ở đây. Có thể nói, MTNK vừa là một tượng đài hiếu nghĩa, vừa là một tác phẩm thi ca in đậm dấu ấn nhân cách làm người của nhà thơ. Chúc nhà thơ PĐM giữ lấy đạo hiếu muôn đời này trong trái tim anh, chúc anh an vui khi đối mặt với cuộc sống ồn ào bon chen quanh mình để sáng tác những vần thơ hay, góp mặt với nền văn chương đương đại.

Bà Rịa, ngày 30/6/2022.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức – Tiếng lòng tha thiết của một đời trải nghiệm
Hai bài cảm nhận của nhà thơ Tố Hoài và nhà thơ Phạm Đình Phú
Xem thêm
Thêm một Nguyễn Trường viết phê bình văn học
Bài đăng Thờ báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức - Bản tình ca viết về tình yêu “một thời hoa lửa”
Cảm nhận về tập thơ Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam
Xem thêm
Sắc thái riêng từ “Khoảng trời xanh ký ức”
Sáng 30/5/2025, Câu lạc bộ Thơ Phương Nam đã tổ chức buổi ra mắt tập thơ thứ bảy mang tên Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một dấu ấn thơ ca thấm đẫm trải nghiệm sống, chan chứa hoài niệm và thấm đượm tình người.
Xem thêm
Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai
Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập Đồng (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.
Xem thêm
Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài
Trong hành trình diễn tiến của nhân loại, viết không chỉ là một hình thức giao tiếp mà còn là cách để con người lưu giữ, truyền tải tri thức và thể hiện bản thân. Do đó, viết gắn liền với đời sống con người, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình tồn tại, phát triển. Diêm Liên Khoa từng tâm niệm: “Sống là không thể không viết và tất yếu phải viết”[1]. Với nhà văn, việc cầm bút để họa lên bức tranh nhân sinh - xã hội, qua đó bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình như một nhu cầu tất yếu, một sứ mệnh thiêng liêng. Là tiểu thuyết đầu tay của Phùng Văn Khai, Hư thực - đúng như tiêu đề tác phẩm - mở ra một thế giới của những điều mờ ảo, huyễn hoặc. Hình như, hiểu được lẽ “nhân sinh như mộng, văn tại kì nhân”, nên trên con đường dẫn vào nghiệp viết, Phùng Văn Khai đã dành những dòng chữ đầu tiên để chuyển tải cuộc đời tựa giấc mộng, văn chương chính là phần tinh hoa nằm trong đó.
Xem thêm
Cái tôi trữ tình sâu lắng trong Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền
Đọc tập thơ Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2025
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều Tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Lan tỏa giá trị văn hóa: Sức mạnh của đội ngũ văn nghệ TP.HCM
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước
Xem thêm
Chất chứa bi hùng vương triều tiền Lý
Nhà văn Phùng Văn Khai quả là quá táo gan và thừa dũng cảm khi bước chân vào một vùng đất trống. Ấy là khi anh quyết định tái hiện các cuộc chống ngoại xâm trong thời kỳ Bắc thuộc bằng văn học. Gánh lấy sứ mệnh vô cùng khó khăn ấy, anh tự xem mình là nhà thám hiểm lịch sử hay một đấng phiêu lưu văn học? Không ai trả lời được câu hỏi ấy, ngoài anh.
Xem thêm
Phật giáo hộ quốc dưới góc nhìn tiểu thuyết vương triều Tiền Lý
Sớm mai, sương bạc vương trên cánh sen tĩnh mặc, hồ nước phẳng lặng phản chiếu bầu trời vô tận. Tiếng chuông chùa ngân dài trong làn gió sớm, tan vào không gian như những vòng sóng lan tỏa, vọng về từ ngàn xưa lời kinh Bát Nhã
Xem thêm
“Thu thức giấc” của Trịnh Bích Ngân - Mùa của những rung động
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 4/2025
Xem thêm
Bây giờ tôi chỉ muốn nói: Cảm ơn!
Bài của nhà văn Tuấn Trần.
Xem thêm
Các cuộc chiến trong lòng chiến tranh...
HOÀNG HÔN DÁT ĐỎ là cuốn tiểu thuyết của Nhà văn Tố Hoài do Nhà xuất bản Lao động ấn hành năm 2016.
Xem thêm
Đặng Nguyệt Anh - Một hồn thơ không tĩnh vật
Bài của PGS.TS Hồ Thế Hà đăng tạp chí Sông Hương
Xem thêm