- Chân dung & Phỏng vấn
- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và “Cõi lặng”
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và “Cõi lặng”
DƯƠNG KỲ ANH
Tại Đại hội Nhà văn toàn quốc lần thứ IX tháng 7.2015, tôi đến chào nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ngồi ở hàng ghế trên và mời anh lên chơi ở nhà vườn Sóc Sơn. Anh bảo: “Dương Kỳ Anh ơi, họp xong, mình về Huế thôi…”. Nhiều người nói rằng, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời chức vụ, quyền lực một cách thanh thản. Anh dứt áo, về quê mình, xứ Huế, xứ thơ, dù gia đình anh ở Hà Nội.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Các buổi lễ lạt, cũng không thấy anh xuất hiện trên tivi. Nhiều lần, tôi điện cho vợ anh, chị Lợi, hỏi anh đã ra Hà Nội chưa để đến chơi, nhưng vẫn chưa gặp được anh. Khi nhận được tập thơ “Cõi lặng” anh gửi tặng, tôi mừng quá, đọc liền một mạch:
“… Nỗi buồn thăm thẳm, chỉ có anh biết được/chỉ có anh đếm được bằng tay/ những đốt sống và xương sườn của mình /Trước kết cục bụi bặm…” (Hy vọng 2 – trang 21).
Thì ra, trong thơ, anh chẳng thanh thản chút nào. Tôi vốn yêu thơ anh từ rất lâu. Từ ngày còn là sinh viên khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ). Học xong đại học, tôi lên đường nhập ngũ. Cô em họ tôi, khi biết tôi vào bộ đội, đã mang đến tặng tôi chiếc nhẫn một chỉ vàng và tập thơ “Đất ngoại ô” của Nguyễn Khoa Điềm. Đơn vị tôi hành quân qua Hà Nội, nghỉ đêm tại khu nhà bỏ không của sân bay Bạch Mai. Tôi hỏi đại đội trưởng: “Sao lại nghỉ ở nơi nguy hiểm thế này?”. Anh cười: “Nơi nguy hiểm nhất, nhiều khi cũng là nơi an toàn nhất”. “Ra thế”.
Gần một giờ sáng, chúng tôi mới đặt ba lô, ngả lưng ngay trên nền xi măng. Ngủ được vài tiếng đồng hồ thì kẻng báo động. Lệnh tư trang để tại chỗ, cả đơn vị đi đào hầm. Mọi người buồn ngủ díp mắt không ai muốn đi. Nhưng “quân lệnh như sơn”. Tôi rút chiếc xẻng gập treo cạnh ba lô chạy ra sau vườn. May quá, có một chiếc hầm tròn ai đào dở, sâu quá đầu gối.
Tôi bứt cỏ, đào tiếp. Đào sâu đến bụng, mệt rã người, tôi lau xẻng, gập lại đi về lán, lấy bộ quần áo lót chạy ra bể nước. Tôi dùng chiếc mũ cối Trung Quốc múc nước giội ào ào. Đang tắm thì có kẻng báo động. Lần này không phải lệnh đi đào hầm mà báo động máy bay. Chỉ mấy phút, tiếng máy bay đã ầm ầm trên đầu. Tiếng bom nổ.
Tôi không kịp thay đồ, chạy vội ra hầm, trên người chỉ độc chiếc quần đùi bết nước. Nhảy xuống hầm, vừa ngước nhìn lên, đã thấy hai chiếc máy bay nhào xuống giội bom, một chùm bom đen trùi trũi lao thẳng xuống. Tôi đội chiếc mũ cối lên đầu, hai tay bịt tai, ngồi thụp xuống. Trước đó, tôi đã nhiều lần bị máy bay ném bom xuống cạnh hầm, bị pháo kích… Nhưng chưa lần nào thần chết hiện rõ trong tôi như lúc này. Những chùm bom đen trùi trũi vẫn cứ liên tiếp lao xuống. Tôi nhìn rõ cả cánh bom xoay tròn trên không trung.
Sau cơn rùng mình, tôi nhắm mắt, bình thản đón đợi điều xấu nhất có thể xảy ra… Loạt bom nổ rất gần, chỉ cách căn hầm tôi ngồi vài mét (sau này, tôi mới biết, thật may mắn cho chúng tôi, chúng chỉ ném bom cắt, loại bom sát thương bằng mảnh chứ không phải bom đào). Cây phi lao cạnh hầm đổ ập xuống. Thân cây che ngang miệng hầm. Chính cái mấu cây xù xì và chiếc mũ cối đã cứu tôi, đỡ cho đất đá và mảnh bom không găm vào đầu….
Khi tiếng máy bay và tiếng bom ngừng hẳn, tôi ngoi lên khỏi miệng hầm, nhìn về phía mấy cái lán nơi chúng tôi trú ngụ đêm qua. Chỉ thấy những hố bom chồng lên nhau. Cái lán gần như biến mất. Tôi thấy đại đội trưởng Thành, cũng vừa chui lên từ một căn hầm, bắc loa tay lên miệng hét “Tất cả sơ tán vào làng, chạy đi…”.
Khi cả đại đội đã chạy vào nhà dân, nghe nói có người bị thương, có người chết, những người có mặt đều mặc quân phục, riêng tôi chỉ độc một cái quần đùi. Tiểu đoàn phó Thuận gắt: “Cậu tên gì, sao lại ăn mặc như thế, hả?”. Tôi báo cáo là đang đi tắm, thì… “Tôi xin được quay trở lại tìm tư trang…”. Thượng úy Thuận bực: “Không được quay lại, cậu có cái gì quý giá mà cứ nằng nặc đòi quay lại thế?”. Tôi nói: “Có một thứ rất quý, thưa thủ trưởng”. “Thứ gì?”. “Thưa thủ trưởng, tập thơ ạ”.
“Thơ, cái cậu này hâm rồi thơ với chả thẩn”- Ông phẩy tay bỏ đi… Quả thực, trong các thứ tư trang, tôi tiếc nhất là tập thơ “Đất ngoại ô”. Tôi biết, máy bay Mỹ sau đó mấy lần quay lại ném bom nơi chúng tôi nghỉ đêm qua, nhưng tôi vẫn kiên trì xin thủ trưởng để tìm tập thơ…. Đại đội trưởng Thành, người sau này ra quân, về ở cạnh nhà tôi tại khu tập thể Quỳnh Mai – là người hiểu tôi hơn cả. Anh bảo: “Thôi cậu ạ, bây giờ có quay lại tìm cũng chẳng thấy đâu”. Còn tiểu đoàn phó Thuận và trung đội trưởng Cao thì rất ác cảm với tôi, coi tôi là người gàn dở.
Trong bốn tập thơ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã xuất bản: “Đất ngoại ô”; “Mặt đường khát vọng”; “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” và “Cõi lặng”, nhiều bài thơ của anh, qua gần 40 năm tôi vẫn thuộc lòng. Phải nói rằng, ngày ấy, những người lính rời ghế nhà trường như tôi, ra trận với tất cả những gì trong sáng nhất của tuổi trẻ. Chính những vần thơ, những khúc hát thời đó đã động viên chúng tôi rất nhiều.
Những bài thơ như: “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, “Đất ngoại ô”, “Con gà đất, cây khèn và khẩu súng” của Nguyễn Khoa Điềm, nhất là đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của anh: “…Chén rượu đánh lừa cơn mỏi, cơn đau/Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu /Đánh lừa thuồng luồng, xăm mình, xăm mặt /Đánh lừa thằng giặc là truyện Trạng Quỳnh
Nhưng lạ lùng sao nhân dân ta thông minh /Không hề lừa ta dù ca dao, cổ tích /Ta lớn lên với niềm tin chân thật…”, những vần thơ như thế cứ hàng đêm ngân lên trong tôi. Thế mới biết, thơ với người yêu thơ luôn luôn gắn bó với nhau.
Cuộc đời, có những điều ngỡ như là duyên phận. Khi tôi chuyển sang Trung đoàn 236 (Đoàn tên lửa Sông Đà anh hùng), một lần, trung đoàn cử tôi lên công tác ở quân chủng Phòng không – Không quân để viết một vở kịch thì phải. Tôi được ở chung với một trung úy đã luống tuổi, nhưng rất vui tính. Qua câu chuyện, tôi được biết con gái ông, chị Lợi, là người yêu, vợ chưa cưới của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Sau ngày anh Điềm nghỉ hưu, tôi có điện cho chị Lợi, vợ anh Điềm hỏi về ông, trung úy Thái Phú ngày xưa, chị bảo ông ở trong quê (Huế) giờ cũng không được khỏe lắm…
Rồi những ngày tôi về báo Tiền Phong, tham gia Ban Thường vụ Trung ương Đoàn, phụ trách khối báo chí xuất bản của Đoàn, tôi và anh Điềm mới gặp nhau. Ngày đó, anh cũng ở trong BCH, làm Bí thư Thành Đoàn Huế thì phải! Những buổi họp BCH Trung ương Đoàn, tôi thường nghe anh phát biểu. Bài phát biểu của anh bao giờ cũng gây được sự chú ý của mọi người. Thoảng hoặc, anh qua tòa soạn báo chơi. Tôi tiếp anh trên chiếc bàn làm việc (ban đêm cũng là nơi tôi nằm ngủ).
Trải tờ báo cũ, mấy chiếc kẹo bột, chén nước chè nhạt… Chúng tôi nói chuyện văn chương. Thật ra, chỉ một mình tôi nói, còn anh ngồi nghe, mỉm cười hoặc gật đầu. Anh rất ít nói, kiệm lời… Rồi anh chuyển ra Hà Nội, làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin kiêm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, rồi làm Bộ trưởng. Chúng tôi gặp nhau nhiều hơn. Anh là người ủng hộ chúng tôi thành lập Công ty Tiền Phong, các nhà sách Tiền Phong để khuyến khích thanh niên đọc sách. Khai trương mấy nhà sách Tiền Phong ở Hà Nội, anh cùng các anh Hồ Đức Việt (đã mất), Nguyễn Sinh Hùng, Phạm Quang Nghị đến cắt băng. Anh thường ra mua sách ở các nhà sách Tiền phong. Từ khi anh đảm nhận trọng trách Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) tôi cố ý ít gặp anh. Nhưng, với tôi, anh vẫn như xưa. Có việc gì, anh gọi điện trực tiếp cho tôi, hay tôi gọi điện đến nhà riêng của anh, không phải qua thư ký.
Tôi biết anh là người có chính kiến… Tôi mong đợi ở anh thực sự quyết liệt bày tỏ chính kiến của mình… Bây giờ, khi ngồi đọc những dòng thơ trong tập “Cõi lặng”: “Chúng ta, kẻ không may mắn /Rồi cũng nhập vào dòng chảy của Những điều tốt đẹp / Dòng nước sẽ rửa sạch sự đớn hèn/ Dẫu có khi đã nhường lời cho bọn khoác lác…”.
Tôi bỗng hiểu. Cuộc đời thật khó!
Anh đã đi qua tất cả, để bây giờ nhìn lại mình, chiêm nghiệm từ chính mình, thực sự ngồi ngắm khuôn mặt mình:
“Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mình / Với nỗi buồn trong sạch”.
Khi ta thoát khỏi sự ràng buộc của chức vụ, quyền lực, bao nhiêu sự vụ, những chuỗi họp hành bất tận, những lời tung hô, những điều đắc chí và bất đắc chí… ta bắt đầu đi vào “Cõi lặng” của mình, được nhìn ngắm mình, nhìn ngắm xung quanh, ta bỗng hiểu rằng: “Nhiều khi đá dạy ta mềm mỏng / Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành / Nỗi buồn đánh thức hy vọng” (Hy vọng)
Không phải ai cũng hiểu được điều đó, cảm nhận được những điều tưởng như là nghịch lý, nhưng nó lại là căn nguyên của sự thật, làm ta bình tâm hơn trước những thách thức của cuộc đời. Nếu cuộc đời thuận buồm xuôi gió, con người khó mà nhận ra mặt trái của cuộc sống. Nhà thơ, hơn ai hết, nhạy cảm với mọi sự biến động của cuộc đời. Hung bạo, tố giác, nặc danh nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày, biểu hiện sự xuống cấp của đạo đức, văn hóa… và chính anh, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong “Cõi lặng” đã nhìn tận mặt: “Hung bạo trên mạng, trên sàn diễn, trong lớp học/ Hung bạo giữa bàn nhậu, cửa sau công sở, hung bạo đường phố/ Hung bạo văn chương, tố giác, nặc danh …”.
(nghe tin hai nhà khoa học bị tai nạn xe máy).
Với một người đã từng giữ những chức vụ cao như anh, viết những câu thơ thế này, quả là đau xót: “Khi mồ hôi trở nên quá rẻ/ Kẻ ranh ma trở nên quá giàu” (Cánh đồng buổi chiều) Bây giờ, anh trở lại với thơ, trở lại với đời thường. Tôi thật mừng. Đã là nhà thơ thì không thể sống mà không làm thơ. Nhiều người thích tập thơ “Cõi lặng” với những sắc thái khác, riêng tôi, tôi vẫn thích những câu thơ như: “Thử luồn tay vào tóc /Sợi bạc không che kín ngón …“. Cuối cùng, thơ vẫn là những gì lắng lại sau tất cả mọi điều, dù vinh hoa, phú quý hay những khổ đau, bức bối thường nhật của cuộc đời.
Nguồn: Van.vn; Văn nghệ Công An 2016
Mời đọc Kỷ yếu NGUYỄN KHOA ĐIỀM