TIN TỨC

Vấn đề gia đình, xã hội, đức tin trong Từ niềm tin đến niềm vui

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-07-21 07:57:09
mail facebook google pos stwis
2997 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA
(Nhân đọc Từ niềm tin đến niềm vui của Đặng Phúc Minh, Nxb Hội Nhà văn)


 

Vâng, xin sống với niềm tin ngời sáng

Với tình yêu trải rộng đến muôn phương

Đến cuộc đời như buổi sáng mùa xuân

Từng ngây ngất những dòng thơ bất tận

Đây là 4 câu thơ của tác giả Đặng Phúc Minh mở đầu cho tập sách Từ niềm tin đến niềm vui của chính anh. Đọc xong 4 câu thơ mở sách đã gây cho tôi sự tò mò, thế là tôi đọc liền một mạch từ trang đầu tiên cho đến trang cuối cùng của cuốn sách. Đọc xong tập sách, tôi cảm thấy rất hài lòng và vô cùng ngưỡng mộ kiến văn của nhà thơ, nhà giáo Đặng Phúc Minh.

Với trữ lượng kiến thức lớn, sự tâm huyết đào sâu nghiên cứu về các vấn đề gia đình, xã hội, tôn giáo... thì Đặng Phúc Minh mới có viết được tập sách đầy đặn như thế.

Từ niềm tin đến niềm vui được sắp xếp, phân chia bố cục rất bài bản và khoa học. Độc giả dễ nắm bắt những nội dung mà người viết đề cập trong từng bài, từng phần, từng mục. Ngoài phần Mở đầu và phần Góc nhìn của bạn hữu, tập sách được chia làm 3 nội dung lớn rất có ý nghĩa, nhất là trong bối cảnh xã hội hiện nay.

Phần I: Gia đình (gồm 5 bài viết)

Lòng chung thủy; Hy sinh, yếu tố giữ hạnh phúc gia đình; Cột trụ đức tin nơi gia đình; Nương bóng Mẹ; Mẹ - Nguồn yêu thương vô bờ.

Đặng Phúc Minh đưa lòng chung thủy lên trước nhất là cũng có dụng ý. Bởi chung thủy, đó là vẻ đẹp để tô thắm tình yêu đôi lứa; chung thủy - chất keo kết chặt, suối nguồn nuôi dưỡng tình yêu hôn nhân...

Bằng sự quan sát, nhìn nhận của một người từng trải như Đặng Phúc Minh, ông cho rằng: “Càng trong gian khó, càng qua thử thách chông gai thì lòng chung thủy càng bừng sáng. Trong chiến tranh, vợ chồng phải xa cách năm năm, mười năm, thậm chí cả hàng mấy chục năm, kẻ Bắc người Nam... thế nhưng chính lòng chung thủy đã giúp cho họ mãi mãi luôn hướng về nhau, cùng vững tin chờ ngày đoàn tụ. Thế rồi, ngày ấy đã đến khi đất nước độc lập! Họ lại về bên nhau “như chưa hề có cuộc chia ly”, hạnh phúc nơi gia đình lại được sống lại.

Ngược lại, trong gần nửa thế kỷ qua, ta cũng chứng kiến biết bao gia đình tan nát đổ vỡ, con cái “cù bơ cù bất”; “đầu đường xó chợ” do cảnh “chồng ăn chả, vợ ăn nem”. Nguyên nhân chính bởi họ không giữ được lòng chung thủy khi phải xa nhau. Đau xót hơn nữa, ta còn thấy trong xã hội hiện tại, có những trường hợp dù cùng sống trong một mái nhà nhưng mỗi người đều có “những khoảng trời riêng”, đó cũng là nguyên nhân bào mòn hạnh phúc. Càng giàu sang, có chức có quyền mà thiếu lý tưởng đúng đắn, nghèo đức tin, xa rời đời sống... thì việc đánh mất lòng chung thủy càng dễ xảy ra...”.

Bên cạnh lòng chung thủy là sự hy sinh, đó là yếu tố để giữ hạnh phúc gia đình. Trong gia đình dù hy sinh nhỏ bé hay lớn lao cũng đều đáng trân trọng. Vì tình nghĩa gia đình nên cần hy sinh cho nhau, cần có sự tương tác giữa gia đình với xã hội. Đặng Phúc Minh cũng vạch ra cho bạn đọc thấy được mục đích của việc hy sinh cho nhau của những thành viên trong gia đình và làm cách nào để giữ gìn hạnh phúc gia đình được bền chặt.

Đặng Phúc Minh nhấn mạnh đến tầm quan trọng “Cột trụ đức tin nơi gia đình”. Một bài viết được khảo sát khá kỹ lưỡng, chi tiết với những số liệu thống kê rành mạch, rõ ràng tạo nên sự bất ngờ đến thảng thốt; bởi lâu nay nghe nhiều nhưng ít người để ý đến. Tỷ lệ ly hôn, nạo phá thai ngày một gia tăng; quyền sống con người không được tôn trọng. “Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới ngày 27/9/2017, Việt Nam đứng thứ 3 trong danh sách các nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới. Cụ thể: 1. Trung Quốc 7,93 triệu ca/năm; 2. Nga 2,28 triệu ca/năm; 3. Việt Nam 1,52 triệu ca/năm; 4. Mỹ 1,4 triệu ca/năm; 5. Ukraina 0,6 triệu ca/năm.

Việt Nam đứng thứ 3, nhưng xét số ca nạo phá thai trên dân số thì Việt Nam đã vượt Trung Quốc và Nga. Trung Quốc: 7,93 triệu ca/ 1,3 tỉ dân = 0, 006; Việt Nam: 1,52 triệu ca/ 90 triệu dân = 0,0168”.

Nhìn vào những con số thống kê khiến tất cả chúng ta phải suy ngẫm. Không chỉ mỗi cá nhân, mỗi gia đình mà tất cả các cấp, các ngành và toàn xã hội phải chung tay vì tương lai của giống nòi; tương lai của cả một dân tộc...

Vai trò của người cha, người mẹ cũng có vị trí đặc biệt trong gia đình. Điều này cũng được Đặng Phúc Minh phân tích rất kỹ.

Ở phần I: Bài viết nào cũng hàm súc, cô động với những lý lẽ, luận cứ, luận chứng rõ ràng, cụ thể, giàu tính thuyết phục.

Phần II: Xã hội (gồm 5 bài viết)

Việc giáo dục con cái trong gia đình để trở thành đứa con ngoan, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; có ích với cộng đồng xã hội là điều mà các bậc làm cha làm mẹ nào cũng luôn mong muốn.

Từ câu chuyện “hôi bia”, xảy ra ở Biên Hòa vào ngày 04/12/2013 của tài xế Hồ Kim Hậu 30 tuổi, quê Bình Định để tác giả Đặng Phúc Minh luận bàn về cách giáo dục con cái của các bậc làm cha làm mẹ.

Tiếp đến, Đặng Phúc Minh đề cập đến vấn đề lương thực với đời sống con người.  Bởi lương thực là điều rất cần thiết cho sự sống và sự tồn tại của con người. Nhưng điều không thể thiếu đó là cần phải được học tập; ngày nay học tập - ngày mai giúp đời. Học để biết, để hiểu, học để làm người có đạo đức, có tri thức để giúp đời, giúp người... Ngoài ra, nhà giáo Đặng Phúc Minh cũng không quên nhắn nhủ về: Trách nhiệm lương tâm trong nghề nghiệp; Động lực cho những hy sinh.

Phần III: Xã hội và tôn giáo (gồm 11 bài viết)

Môi trường sống, những thách đố, tìm nguyên nhân, hướng khắc phục; Một tấm lòng; Tìm về cội nguồn tổ tiên; Sách lược Tiền Cursillo trong môi trường Việt Nam; Tiền Cursillo; Sao Mai, tiếng ngân vang còn mãi với thời gian; Từ niềm tin đến niềm vui; Tinh thần liêm khiết; Con ong tài ba hơn các nhà khoa học; Ta muốn chào em; Ta muốn hẹn em.

11 bài viết với những thông điệp đầy nhân văn, nhân ái hướng về một xã hội tốt đẹp: người và người sống để yêu thương nhau, sống tử tế với nhau...

Trong 11 bài viết ở phần này, đáng chú ý nhất là bài “Từ niềm tin đến niềm vui”. Đặng Phúc Minh chỉ ra sự khác biệt giữa niềm vui và thú vui. Để rồi tác giả đặt ra câu hỏi: Vậy niềm tin tác động đến niềm vui của con người ra sao? Điều đó được nhà giáo Đặng Phúc Minh lần lượt luận giải qua từng khía cạnh: Khi một xã hội mất niềm tin? Từ niềm tin đến niềm vui; Mất niềm tin gia đình ly tán; Người dân mất niềm tin thì đất nước khó bình yên; Niềm tin có từ đâu, hệ quả của việc có niềm tin và không có niềm tin; Tìm niềm vui từ đâu?

Từ niềm tin đến niềm vui của Đặng Phúc Minh là tập sách được viết bằng tình cảm, sự yêu thương trân trọng của một con người hết lòng vì người khác, vì tương lai, hạnh phúc của mỗi nhà, mỗi người, mỗi quốc gia, dân tộc. Từ niềm tin đến niềm vui một khoảng cách tuy xa mà gần, tuy gần mà xa. Nhưng nếu bản thân mỗi chúng ta tự ý thức, luôn vun vén gia đình, luôn nghĩ về người khác, luôn sẵn sàng hy sinh cho người khác để gia đình được hạnh phúc, xã hội luôn được bình yên thì khoảng cách ấy ở trong tầm kiểm soát của chính chúng ta.

Từ niềm tin đến niềm vui là kết quả của việc nhà thơ, nhà giáo Đặng Phúc Minh dày công tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng những kiến thức văn học, lịch sử, văn hóa, địa lý, xã hội học... để hoàn thành tập sách có giá trị này. Đây sẽ là cuốn tư liệu quý cho những ai quan tâm, những ai nghiên cứu về các vấn đề gia đình, xã hội và đức tin!

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm