TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Những sắc màu ánh sáng trong tập thơ Thắp nến tôi để dành của Nguyên Bình

Những sắc màu ánh sáng trong tập thơ Thắp nến tôi để dành của Nguyên Bình

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
519 lượt xem

TRIỆU KIM LOAN
 

Trả em thời gian xanh

đồi uyên ương lộng gió

góc không gian hoa cỏ

thắp nến tôi để dành... (Khép mắt)

Những câu thơ giàu thi ảnh, ngân vang như những nốt nhạc của một giai điệu tình yêu nồng nàn, tha thiết đã cuốn hút tôi khám phá những sắc màu ánh sáng đa chiều trong tập thơ Thắp nến tôi để dành của nhà thơ Nguyên Bình.

Nguyên Bình tên thật là Nguyễn Bá Bĩnh sinh ra ở Thừa Thiên Huế, tốt nghiệp ĐHSP Huế, gắn bó với nghề dạy học cho đến khi nghỉ hưu, hiện sinh sống và sáng tác tại Thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Thắp nến tôi để dành là tập thơ thứ tư của anh sau Tiền kiếp (2019), Hoa vàng trên áo xanh (2020), Dòng nhựa thơm nguyện ước (2021). Ngoài thơ, anh còn viết cảm nhận văn học cho hàng trăm tác phẩm của bạn bè trong và ngoài nước. Những vài viết đã được xuất bản qua hai tập QUYỀN NĂNG CỦA NGÔN NGỮ TỪ TRÁI TIM (Cảm nhận văn học I) và BÀI LUÂN VŨ CỦA GIAO CẢM THI CA (Cảm nhận văn học II) mà tôi vinh hạnh là một trong những tác giả được anh quan tâm với thi phẩm KHÁT VỌNG XANH.

Lawrence Ferlinghetti từng nói: “Thi ca là khoảng cách ngắn nhất giữa hai con người. Thi ca là cái bóng được chiếu bởi những ngọn đèn đường của trí tưởng tượng”. Với 70 bài thơ, những mảng màu ánh sáng trong Thắp nến tôi để dành của Nguyên Bình được khúc xạ bởi tình yêu lứa đôi, tình yêu tha nhân, những thăng trầm trong cuộc sống mà nhà thơ trân quý. Tên gọi của tập thơ đã ngầm chứa những vỉa trầm tích, dẫn dụ người đọc đến với mạch nguồn chủ đạo xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyên Bình.

Là một người xa xứ, những hoài niệm đau đáu đến khắc khoải về quê hương, gia đình nghèo khó được tái hiện trong thơ thật xúc động:

Đêm qua đất chảy thành sông/ nước lăn thành đá nhà rông thành thuyền/ Vườn sau sóng vỗ êm đềm/ con cá bơi ngửa trước thềm rêu xanh./ Quê nhà mạ đội mái tranh/ em bồng con đứng níu cành khế chua/ thằng cu húp chén nước mưa/ bàn thờ tiên tổ còn lưa lư đồng/ Tôi về ôm nhánh củi rong/ bập bềnh nước vỗ ong ong mái nhà/ cóng tay cha bế tôi qua/ bước trên đọt chuối oằn sa mấy buồng

(Giấc mơ Cam Lồ)

Quê hương, nguồn cội chính là nơi quay về - nơi bến đỗ bình yên, nơi bờ vai nương tựa được nhà thơ thi vị hóa bằng hình ảnh nụ đầu cành xanh biếc, vạt nắng vỗ tình đôi cánh lụa, đồi thạch thảo nở bừng hương diệu vợi và mây thong dong trong vầng sáng nhật nguyệt: Nơi ra đi cũng là chốn quay về/ mùa nhung nhớ nụ đầu cành xanh biếc/ mây lang thang một mình em nhật nguyệt/ nắng vỗ tình đôi cánh lụa là yêu (Quay về). Hoài niệm về một thời gian khốn khó với gánh nặng mưu sinh nhưng thơ Nguyên Bình không bi lụy, than vãn dù vẫn vương lại chút dư vị buồn:

Cùng lắm thì anh quẹt ga đốt trầm xông

hu hồn con cơ tình bò trên giấy

chiếc muỗng gãy đôi

trái tim gỗ cựa quậy

cô hàng ơi

cho anh xin tí đường...

(Nhớ những gì sẽ xa).

Thắp nến tôi để dành là vườn thơ tình yêu với đủ hương thơm, sắc màu và giọng điệu. Chủ thể có lúc nhập vai nhân vật trữ tình, có lúc tự phân thân thành hai nhân vật tự đối thoại về tình yêu lứa đôi. Có lúc là tình yêu tinh khôi, ngọt ngào và mê đắm:  Thức dậy tìm em/tóc rối xanh xưa xỏa mềm trên gối trắng/ vòng tay ôm cõi xa thăm thẳm/ có đủ ấm tình nhau (Cuối năm rồi). Có lúc trở về với bộn bề cảm xúc: trong tiết lạnh se se, dấu hương của hò hẹn đánh thức và chút buồn khe khẽ của nỗi nhớ vương mang đã tạo nên tứ thơ đẹp:  

Một chút lạnh se se ngoài sân vắng

một chút hương lưu dấu buổi hẹn hò

một chút nhớ tủi hờn sau ngực áo

một chút buồn khe khẽ rắc tàn tro

(Hoang vu)

Rất nhiều bài thơ viết về tình yêu mãnh liệt được mĩ lệ hóa qua những hình ảnh của đất trời cây cỏ: Trời đất rộng mà tình yêu duy nhất/vũ trụ mênh mông ta chọn dải ngân hà/ em hãy sáng như ngôi sao bất tử/ ta sẽ hái về từ mộng dấu yêu xa

(Quán trọ mùa đông), Trái tim xanh đã cháy hết mùa thu/ khi lá biếc vừa nhuốm vàng cuống nhớ/heo may em đi qua mùa trăn trở/ôi ngập ngừng tình lỡ với tình không…(Trái tim mùa thu), Trong đêm sâu/hai vì sao thức trắng/bờ hoang nhiên/tinh tú gối tay nằm/linh hồn ta/dạo qua chòm nhân mã/chạm thiên thu/vỡ một khúc nguyệt cầm.(Bóng thời gian). Niềm khát khao bỏng cháy đón nhận tình yêu được đo bằng ánh sáng dịu mát của vầng trăng, dòng chảy mềm mại mờ ảo trong khói mây của sông Ngân, vẻ đẹp lộng lẫy của vườn hoa thạch thảo:

Ta đứng chờ em

bên bờ sông Ngân huyền hoặc

gieo vần thơ vào mùa thu

vườn thạch thảo nở bừng hương sắc

bung lụa là

cả vầng trăng rót mật

ngọt lịm một mùa yêu

(Mũi tên vàng)

Tình yêu là đề tài muôn thuở cũng là mảnh đất mỡ màu để thi nhân gieo trồng và vun sới theo cách riêng của mình. Nói như Philip Larkin: “Mỗi bài thơ là một vũ trụ duy nhất, do đó không có cái gọi là truyền thống, một huyền thoại chung trong mỗi bài thơ của các nhà thơ khác nhau…” Gần gũi và chia xa, thủy chung và lừa dối là những mặt trái ngược trong tình yêu và đạo lí làm người. Nguyên Bình đã có những phá cách táo bạo để biểu đạt những phức điệu ấy bằng những ẩn dụ tinh tế:

Em cởi chiếc áo tình nhân
trả tôi màu hoang đường không có thật
sắc màu loài người đánh mất
bằng ánh mắt dối lừa nhau.

 

Tôi ngu ngơ thương tia sáng nhiệm mầu
ngu ngơ yêu tiếng cười pha lê vỡ
yêu bàn tay bé nhỏ
em siết chưa tròn một nỗi cô đơn

 (Phơi áo)

Để chuyển tải nhất quán những mảng màu ánh sáng trong Thắp nến tôi để dành, nhà thơ đã khai thác đa dạng đề tài, phong phú về thể loại và có những cách tân trong cách xây dựng tứ thơ, lựa chọn và xử lí ngôn ngữ, ngắt nhịp theo lối viết hiện đại. Những thi ảnh được sử dụng táo bạo đã tạo nên hiệu quả thẩm mĩ cao: Chiều lạc bước/ chiều rơi vàng lối nhỏ/gió chưa sang/ sợi nắng úa thầm thì ( Bóng thời gian). Hệ thống từ láy được sử dụng đậm đặc đã diễn tả tinh tế trạng thái của cảnh vật, con người: Thu chưa xa mà cúc tím rưng rưng/ phơn phớt gió xua đôi tà áo mỏng/ rơm rớm nắng hoe vàng hong số phận/ xao xác hồn từng chiếc lá me bay…(Trái tim mùa thu), Mắc chiếc áo màu tình yêu lên liềm trăng/ mới hôm qua thôi mà biếc xanh đã nhạt ( Phơi áo). Nhà thơ sử dụng nhiều phép so sánh, ẩn dụ, nhân hóa sáng tạo: Ai rót hương mà đầy khuông nhạc/ dòng kẻ xanh như ngón tay gầy (Nắng đầu mùa). Những so sánh độc đáo này mở ra trường liên tưởng rộng, nhờ vậy tránh được sự sáo mòn của sự biểu đạt ngôn ngữ thông thường:

Lời hờn ghen như bóng gã thủy triều

tràn lấp em rồi hồn nhiên rút chạy

bờ quạnh hiu dịu êm muôn đời ấy

thùy dương xanh xanh thắm lá đợi chờ

(Quay về)

Nguyên Bình viết nhiều thể thơ năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ hiện đại, lục bát nhưng- như anh chia sẻ, thể thơ anh yêu thích và thành công hơn cả là thể thơ tự do. Với tư duy mở rộng biên độ về không gian, thời gian và những phức điệu tâm trạng của nhân vật trữ tình, thể thơ tự do là sự lựa chọn sáng suốt của tác giả.  Thơ lục bát của Nguyên Bình ngọt ngào, mềm mại, giàu nhạc tính, cách ngắt nhịp thả chữ hiện đại nhưng vẫn giữ được hồn cốt, tinh hoa của thơ ca truyền thống: Gieo vần/lạc khúc ca dao/ngàn sau ai biết/vì sao/nổi chìm.../Lật tung tiền kiếp soi tìm/thì ra/ mắc nợ/ lời nguyền xửa xưa (Lời nguyền xưa).

Phương Lựu từng nói: “Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc”. Thắp nến tôi để dành

là tập thơ thứ tư của Nguyên Bình đã khẳng định nét riêng trong cách biểu đạt và bản lĩnh của một cây bút chuyên nghiệp. Sự nghiêm túc và niềm đam mê trong lao động nghệ thuật đã giúp anh đạt được những thành công nhất định.

 

Trang bản thảo cuối cùng đã khép lại nhưng dư âm và những dòng thơ của Nguyên Bình cứ chầm chậm ngân nga và trò chuyện như nhắn nhủ và mời gọi.

Mùa thu hững hờ rắc hạt nhớ vào trăng
ta vun liếp gieo mầm thương mây trắng
heo may khóc trên bến xưa hoang vắng
ngày buồn rơi thả giọt nắng cuối mùa
... (Cuối mùa)

Giữa những bộn bề và hối hả của cuộc sống đương đại, vẫn có một người thơ cần mẫn gieo trồng, vun đắp trên cánh đồng chữ nghĩa nhọc nhằn để dâng hiến cho nghệ thuật. Xin chúc nhà thơ Nguyên Bình dồi dào bút lực và thành công trong hành trình sáng tác của mình.

T.P HCM 1/5/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm
Nguyễn Ngọc Hạnh - Hồn thơ reo mãi phía làng
Bài viết của Hoàng Thụy Anh và phóng sự ảnh của Nguyên Hùng
Xem thêm
‘Bút chiến’ thời Tự Lực Văn Đoàn
Trước khi được giải Lý luận phê bình của Hội Nhà văn năm nay thì “Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do” đã được chú ý trong cộng đồng đọc. “Câu chuyện cũ nhưng cách tiếp cận mới, khảo tả công phu, chưa kể những dẫn chứng “đấu đá” hậu trường văn chương, đọc rất vui”, độc giả bình luận.
Xem thêm
Khối đa diện “Mộng đế vương”
Nhà văn Nguyễn Trường chọn xứ đạo ở Cồn Phụng của ông Nguyễn Thành Nam, đạo vừa vừa, gọi là Đạo Dừa
Xem thêm
Hồn quê trong một sắc thơ miệt vườn
Nhà thơ Kiên Giang (1929-2014) - đúng ra năm sinh: 1927 - tên thật Trương Khương Trinh (bút danh khác: Hà Huy Hà, Ngân Hà, Trinh Ngọc, Cửu Long Giang…, gốc người làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá, nay là Kiên Giang).
Xem thêm