TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Những sắc màu ánh sáng trong tập thơ Thắp nến tôi để dành của Nguyên Bình

Những sắc màu ánh sáng trong tập thơ Thắp nến tôi để dành của Nguyên Bình

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
694 lượt xem

TRIỆU KIM LOAN
 

Trả em thời gian xanh

đồi uyên ương lộng gió

góc không gian hoa cỏ

thắp nến tôi để dành... (Khép mắt)

Những câu thơ giàu thi ảnh, ngân vang như những nốt nhạc của một giai điệu tình yêu nồng nàn, tha thiết đã cuốn hút tôi khám phá những sắc màu ánh sáng đa chiều trong tập thơ Thắp nến tôi để dành của nhà thơ Nguyên Bình.

Nguyên Bình tên thật là Nguyễn Bá Bĩnh sinh ra ở Thừa Thiên Huế, tốt nghiệp ĐHSP Huế, gắn bó với nghề dạy học cho đến khi nghỉ hưu, hiện sinh sống và sáng tác tại Thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Thắp nến tôi để dành là tập thơ thứ tư của anh sau Tiền kiếp (2019), Hoa vàng trên áo xanh (2020), Dòng nhựa thơm nguyện ước (2021). Ngoài thơ, anh còn viết cảm nhận văn học cho hàng trăm tác phẩm của bạn bè trong và ngoài nước. Những vài viết đã được xuất bản qua hai tập QUYỀN NĂNG CỦA NGÔN NGỮ TỪ TRÁI TIM (Cảm nhận văn học I) và BÀI LUÂN VŨ CỦA GIAO CẢM THI CA (Cảm nhận văn học II) mà tôi vinh hạnh là một trong những tác giả được anh quan tâm với thi phẩm KHÁT VỌNG XANH.

Lawrence Ferlinghetti từng nói: “Thi ca là khoảng cách ngắn nhất giữa hai con người. Thi ca là cái bóng được chiếu bởi những ngọn đèn đường của trí tưởng tượng”. Với 70 bài thơ, những mảng màu ánh sáng trong Thắp nến tôi để dành của Nguyên Bình được khúc xạ bởi tình yêu lứa đôi, tình yêu tha nhân, những thăng trầm trong cuộc sống mà nhà thơ trân quý. Tên gọi của tập thơ đã ngầm chứa những vỉa trầm tích, dẫn dụ người đọc đến với mạch nguồn chủ đạo xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyên Bình.

Là một người xa xứ, những hoài niệm đau đáu đến khắc khoải về quê hương, gia đình nghèo khó được tái hiện trong thơ thật xúc động:

Đêm qua đất chảy thành sông/ nước lăn thành đá nhà rông thành thuyền/ Vườn sau sóng vỗ êm đềm/ con cá bơi ngửa trước thềm rêu xanh./ Quê nhà mạ đội mái tranh/ em bồng con đứng níu cành khế chua/ thằng cu húp chén nước mưa/ bàn thờ tiên tổ còn lưa lư đồng/ Tôi về ôm nhánh củi rong/ bập bềnh nước vỗ ong ong mái nhà/ cóng tay cha bế tôi qua/ bước trên đọt chuối oằn sa mấy buồng

(Giấc mơ Cam Lồ)

Quê hương, nguồn cội chính là nơi quay về - nơi bến đỗ bình yên, nơi bờ vai nương tựa được nhà thơ thi vị hóa bằng hình ảnh nụ đầu cành xanh biếc, vạt nắng vỗ tình đôi cánh lụa, đồi thạch thảo nở bừng hương diệu vợi và mây thong dong trong vầng sáng nhật nguyệt: Nơi ra đi cũng là chốn quay về/ mùa nhung nhớ nụ đầu cành xanh biếc/ mây lang thang một mình em nhật nguyệt/ nắng vỗ tình đôi cánh lụa là yêu (Quay về). Hoài niệm về một thời gian khốn khó với gánh nặng mưu sinh nhưng thơ Nguyên Bình không bi lụy, than vãn dù vẫn vương lại chút dư vị buồn:

Cùng lắm thì anh quẹt ga đốt trầm xông

hu hồn con cơ tình bò trên giấy

chiếc muỗng gãy đôi

trái tim gỗ cựa quậy

cô hàng ơi

cho anh xin tí đường...

(Nhớ những gì sẽ xa).

Thắp nến tôi để dành là vườn thơ tình yêu với đủ hương thơm, sắc màu và giọng điệu. Chủ thể có lúc nhập vai nhân vật trữ tình, có lúc tự phân thân thành hai nhân vật tự đối thoại về tình yêu lứa đôi. Có lúc là tình yêu tinh khôi, ngọt ngào và mê đắm:  Thức dậy tìm em/tóc rối xanh xưa xỏa mềm trên gối trắng/ vòng tay ôm cõi xa thăm thẳm/ có đủ ấm tình nhau (Cuối năm rồi). Có lúc trở về với bộn bề cảm xúc: trong tiết lạnh se se, dấu hương của hò hẹn đánh thức và chút buồn khe khẽ của nỗi nhớ vương mang đã tạo nên tứ thơ đẹp:  

Một chút lạnh se se ngoài sân vắng

một chút hương lưu dấu buổi hẹn hò

một chút nhớ tủi hờn sau ngực áo

một chút buồn khe khẽ rắc tàn tro

(Hoang vu)

Rất nhiều bài thơ viết về tình yêu mãnh liệt được mĩ lệ hóa qua những hình ảnh của đất trời cây cỏ: Trời đất rộng mà tình yêu duy nhất/vũ trụ mênh mông ta chọn dải ngân hà/ em hãy sáng như ngôi sao bất tử/ ta sẽ hái về từ mộng dấu yêu xa

(Quán trọ mùa đông), Trái tim xanh đã cháy hết mùa thu/ khi lá biếc vừa nhuốm vàng cuống nhớ/heo may em đi qua mùa trăn trở/ôi ngập ngừng tình lỡ với tình không…(Trái tim mùa thu), Trong đêm sâu/hai vì sao thức trắng/bờ hoang nhiên/tinh tú gối tay nằm/linh hồn ta/dạo qua chòm nhân mã/chạm thiên thu/vỡ một khúc nguyệt cầm.(Bóng thời gian). Niềm khát khao bỏng cháy đón nhận tình yêu được đo bằng ánh sáng dịu mát của vầng trăng, dòng chảy mềm mại mờ ảo trong khói mây của sông Ngân, vẻ đẹp lộng lẫy của vườn hoa thạch thảo:

Ta đứng chờ em

bên bờ sông Ngân huyền hoặc

gieo vần thơ vào mùa thu

vườn thạch thảo nở bừng hương sắc

bung lụa là

cả vầng trăng rót mật

ngọt lịm một mùa yêu

(Mũi tên vàng)

Tình yêu là đề tài muôn thuở cũng là mảnh đất mỡ màu để thi nhân gieo trồng và vun sới theo cách riêng của mình. Nói như Philip Larkin: “Mỗi bài thơ là một vũ trụ duy nhất, do đó không có cái gọi là truyền thống, một huyền thoại chung trong mỗi bài thơ của các nhà thơ khác nhau…” Gần gũi và chia xa, thủy chung và lừa dối là những mặt trái ngược trong tình yêu và đạo lí làm người. Nguyên Bình đã có những phá cách táo bạo để biểu đạt những phức điệu ấy bằng những ẩn dụ tinh tế:

Em cởi chiếc áo tình nhân
trả tôi màu hoang đường không có thật
sắc màu loài người đánh mất
bằng ánh mắt dối lừa nhau.

 

Tôi ngu ngơ thương tia sáng nhiệm mầu
ngu ngơ yêu tiếng cười pha lê vỡ
yêu bàn tay bé nhỏ
em siết chưa tròn một nỗi cô đơn

 (Phơi áo)

Để chuyển tải nhất quán những mảng màu ánh sáng trong Thắp nến tôi để dành, nhà thơ đã khai thác đa dạng đề tài, phong phú về thể loại và có những cách tân trong cách xây dựng tứ thơ, lựa chọn và xử lí ngôn ngữ, ngắt nhịp theo lối viết hiện đại. Những thi ảnh được sử dụng táo bạo đã tạo nên hiệu quả thẩm mĩ cao: Chiều lạc bước/ chiều rơi vàng lối nhỏ/gió chưa sang/ sợi nắng úa thầm thì ( Bóng thời gian). Hệ thống từ láy được sử dụng đậm đặc đã diễn tả tinh tế trạng thái của cảnh vật, con người: Thu chưa xa mà cúc tím rưng rưng/ phơn phớt gió xua đôi tà áo mỏng/ rơm rớm nắng hoe vàng hong số phận/ xao xác hồn từng chiếc lá me bay…(Trái tim mùa thu), Mắc chiếc áo màu tình yêu lên liềm trăng/ mới hôm qua thôi mà biếc xanh đã nhạt ( Phơi áo). Nhà thơ sử dụng nhiều phép so sánh, ẩn dụ, nhân hóa sáng tạo: Ai rót hương mà đầy khuông nhạc/ dòng kẻ xanh như ngón tay gầy (Nắng đầu mùa). Những so sánh độc đáo này mở ra trường liên tưởng rộng, nhờ vậy tránh được sự sáo mòn của sự biểu đạt ngôn ngữ thông thường:

Lời hờn ghen như bóng gã thủy triều

tràn lấp em rồi hồn nhiên rút chạy

bờ quạnh hiu dịu êm muôn đời ấy

thùy dương xanh xanh thắm lá đợi chờ

(Quay về)

Nguyên Bình viết nhiều thể thơ năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ hiện đại, lục bát nhưng- như anh chia sẻ, thể thơ anh yêu thích và thành công hơn cả là thể thơ tự do. Với tư duy mở rộng biên độ về không gian, thời gian và những phức điệu tâm trạng của nhân vật trữ tình, thể thơ tự do là sự lựa chọn sáng suốt của tác giả.  Thơ lục bát của Nguyên Bình ngọt ngào, mềm mại, giàu nhạc tính, cách ngắt nhịp thả chữ hiện đại nhưng vẫn giữ được hồn cốt, tinh hoa của thơ ca truyền thống: Gieo vần/lạc khúc ca dao/ngàn sau ai biết/vì sao/nổi chìm.../Lật tung tiền kiếp soi tìm/thì ra/ mắc nợ/ lời nguyền xửa xưa (Lời nguyền xưa).

Phương Lựu từng nói: “Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc”. Thắp nến tôi để dành

là tập thơ thứ tư của Nguyên Bình đã khẳng định nét riêng trong cách biểu đạt và bản lĩnh của một cây bút chuyên nghiệp. Sự nghiêm túc và niềm đam mê trong lao động nghệ thuật đã giúp anh đạt được những thành công nhất định.

 

Trang bản thảo cuối cùng đã khép lại nhưng dư âm và những dòng thơ của Nguyên Bình cứ chầm chậm ngân nga và trò chuyện như nhắn nhủ và mời gọi.

Mùa thu hững hờ rắc hạt nhớ vào trăng
ta vun liếp gieo mầm thương mây trắng
heo may khóc trên bến xưa hoang vắng
ngày buồn rơi thả giọt nắng cuối mùa
... (Cuối mùa)

Giữa những bộn bề và hối hả của cuộc sống đương đại, vẫn có một người thơ cần mẫn gieo trồng, vun đắp trên cánh đồng chữ nghĩa nhọc nhằn để dâng hiến cho nghệ thuật. Xin chúc nhà thơ Nguyên Bình dồi dào bút lực và thành công trong hành trình sáng tác của mình.

T.P HCM 1/5/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm