TIN TỨC

Nội trú trong ta một nỗi buồn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-09-25 09:55:16
mail facebook google pos stwis
1127 lượt xem

ĐẶNG HUY GIANG

(Đọc “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024)

Tôi ấn tượng với “Năm ngón tay chưa đặt tên” ngay từ hai bài thơ đầu tiên: “Vẫn thế nhiều khi” và “Cánh đồng”. Một bài viết về em (tình yêu) và một bài viết về cánh đồng (quê hương).

Trong cái nhịp thời gian “Ngày đung đưa/ Tháng đung đưa/ Em và anh ngồi trên cánh võng/ Lắc qua ngày, lắc qua đêm” và ví “Thời gian quanh ta là con chó nhỏ”, Đinh Nho Tuấn nhận thấy em lớn lao đến mức: “Những ngày em xanh rất tuyệt/ Trái đất quay vì có em/ Những ngày em lệch lạc/ Em vùi trái đất vào đêm”. Khi yêu, con người ta thường tuyệt đối hóa tình yêu như vậy, coi tình yêu lớn lao như vậy! Đó là điều dễ hiểu và dễ giải thích. Rồi tình yêu cứ thế mà trào dâng như một lẽ tự nhiên: “Những vần thơ anh không bằng ngôn ngữ/ Xin vang lên như triệu triệu vòng ôm”.

Viết đến đây, tự dưng tôi lại nhớ đến một bài thơ có cái tứ thật khác người của Đinh Nho Tuấn, cũng viết về tình yêu: “Sao em nhiều thế em ơi!”. Một em mà trở thành nhiều em, nhiều em mà vẫn chỉ là một em và có xuất phát từ em... Đó là một ý tưởng hay, chỉ có người nào thực sự yêu, thực sự sống với tình yêu, thực sự say đắm với tình yêu, mới có thể viết ra được như thế!

Trong “Cánh đồng”, nhìn bông lúa mà nảy sinh ý nghĩ như thế này, tâm trạng như thế này, thì cũng thật là hiếm hoi: “Nặng lòng/ Mỗi bông treo hàng trăm mặt trời/ Cúi đầu trùng trùng câu hỏi”. Rồi cũng từ đấy mà hốt nhiên bật ra: “Còn lúa là còn quê hương/ Còn cánh đồng là còn lối ta về”, thì thật là sâu sắc và chí lý!

Đó là hai câu thơ cho thấy “lúa” và “cánh đồng”, quan trọng đến mức nào đối với làng quê Việt, làm nên sự sống còn của làng quê Việt, là chứng chỉ của làng quê Việt và đây cũng là những lời xác quyết như “dao chém đá” về “lúa” và “cánh đồng”.

Cũng ít người, tri ân lúa hết mực như Đinh Nho Tuấn: ”Dành cho lúa những lời thứ nhất/ Dành cho lúa những lời sau cùng” và cũng ít người, canh cánh nỗi lo mất ruộng, mất làng đến xót xa như Đinh Nho Tuấn: “Tháng năm ăn hết những cánh đồng/ Những ngôi nhà nuốt hết những cánh đồng” để đến mức chỉ còn “Tiếng côn trùng/ Dắt nhau về những khoảng không/ Sót lại”. “Ăn” và “nuốt” là hai động tự mạnh, đã gọi sự vật với đúng tên gọi của nói, nói đến sự tàn phá đến mức huỷ diệt của thời đô thị hóa mang màu sắc thị trường.

Cố hương trong “Năm ngón chưa đặt tên”, lúc nào cũng đằm sâu ký ức với những kỷ niệm đẹp đến nao lòng và “lâu đến bao nhiêu cũng không già”: “Tắc kè thảng thốt đêm không trăng/ lung linh tàn tro, cong dáng người nhóm bếp/ bụi tre gai sao đêm nào cũng khóc/ đêm bao mươi oa oa bật lên khỏi tro vùi” (“Nồi bánh đêm ba mươi”), “Làng tôi xanh một vệt dài đuôi mắt/ Sống bình yêu như một đóa hoa rừng/ Lấy tiếng diều từ linh hồn của đất/ Làm nắng vàng, trăng sáng, mưa tuôn” (“Tôi rơi về làng tôi”), “Đất còn run, ngày còn se lạnh/ Nước co ro, cỏ tai tái đôi bờ/ Mặt trời xa, nắng vẽ vầng ánh sáng/ Ru nỗi buồn mắt hồ biếc vu vơ” (“Đồng quê”)...Và những cái đã qua ấy đã trở thành cái nhớ dai dẳng đến nỗi:

Ký ức dội về hạnh phúc, khổ đau

Làm sẹo trên thân tôi da thịt...

  (“Ký ức”)

Trở lại với em (tình yêu), ít nhất Đinh Nho Tuấn có hai tứ thơ: “Khi còn năm ngón chưa đặt tên” và “Mười ngón chưa đặt tên”. Rõ ràng ở đây, ngón (tay) đã trở thành biểu tượng. Nếu trong “Khi còn năm ngón chưa đặt tên” có năm ngón chưa đặt tên, thì trong “Mười ngón chưa đặt tên” lại có đến cả mười ngón chưa đặt tên. Vậy là mỗi ngón cũng có mỗi ngôn ngữ của riêng nó, mà chỉ những lứa đôi mới gọi ra được, đọc ra được như một mật ngữ của tình yêu. Chắc chắn, trong mười ngón đó, chất chứa rất nhiều bí ẩn, chưa dễ giải mã được. Và đó cũng là thế giới riêng của tình yêu. Không thế, tại sao Đinh Nho Tuấn lại hạ bút: “Mười ngón chưa đặt tên/ Thoa dịu mái đầu phủ khói và trái tim ngập tràn nỗi đau anh/ Anh không thể tưởng tượng nổi mình ngờ nghệch đến mức nào/ Khi chưa đặt tên cho mười ngón”.

Thơ tình của Đinh Nho Tuấn đau đáu nỗi niềm, nhiều lúc chữ như cuộn xoáy vào nhau, xoắn xuýt vào nhau để sinh nghĩa mới: “Vết anh, vết em ăn vào nhau da thịt” (“Cho em ngày cạn”), “Thì em hỡi đời người như gió thơm/ Tình yêu đó không bao giờ nguyên khối/ Bao mảnh vỡ chính là ta nhập lại/ Rồi tan ra từ giây phút lúc này” (“Phép màu”), “Trời đất giao thoa, cánh nhạn thiên di/ Khi xa em, gia tài là nỗi nhớ/ Trăn trở, mơ hồ gửi vào giêng hai/ Theo cánh chim trời bay đi muôn ngả” (“Nhớ”)...Riêng trong “Logic em”có bốn câu hay ở cách nói, lại rất thi sĩ:

Không phải mùa khô đâu anh

Đó là mùa bầu trời quên khóc

Không phải mùa mưa đâu

Đó là mùa lệ dâng đầy mắt.

Nhiều bài thơ đạt về tổng thể, trong đó có “Tấm nhân từ đâu có quê hương”. Chỉ tên bài thơ này, riêng câu thơ này, đã được coi là một phát hiện. Còn những câu thơ hay có sắc thái tình cảm, có phần tài hoa và tài tình cũng không hiếm: “Nội trú trong ta một nỗi buồn” (“Chốn điêu linh nhịp thở không màu”),“Nếp thơm trong chén hay lửa đắng/ Nuốt vào mình thành ngụm rưng rưng” (“Ly rượu đầu năm”), “Tay ấp thiền cho năm ngón có đôi” (“Tay ấp thiền cho năm ngón có đôi”)...Tôi dám chắc, cũng ít người viết về chữ “dưng” lạ và biến ảo như Đinh Nho Tuấn:

Duyên kiếp nhân gian hay biết mấy

Dưng dửng ngàn năm vẫn dưng thôi

Em đi dưng này sang dưng khác

Thoắt cái dưng thầm em là tôi.

Cho dù phải “bơi trong đời rộng/ vẫy vùng nước mắt nhân gian”, sống trong “nạn đói tình người” và đôi khi phải “đâm sầm vào nhân tình thế thái”,  nhưng về mặt thái độ và bản lĩnh của Đinh Nho Tuấn, lúc nào cũng quyết liệt, nhất quán. Anh chấp nhập đến mức: “Ngọt ngào và mặn chát/ Xin cứ hắt vào tôi” (“Ly rượu tháng tư”). Anh coi: “Mải miết chết bằng mải miết sống” (“Hoa lộc vừng”). Anh luôn sẵn sàng “năm ăn năm thua” với chính mình trước trang giấy trắng: “Tôi vẫn viết như ngày mai tuyệt chủng” (“Tôi thách tôi”). “Đêm” vẫn “đuổi theo ngày”, “ngày” vẫn “đuổi theo đêm” theo quy luật tự nhiên, cũng giống như “không ai đốt nhưng phượng hồng vẫn cháy”, còn nhà thơ của chúng ta thì “đuổi theo những ký tự”, “ẩn trong phe nước mắt quê hương” mà làm thơ hết mình một cách tự thân.

Nói không quá thì “Năm ngón chưa đặt tên” giống như một tòa nhà thơ có nhiều cánh cửa để đi vào và chính ở đó, mỗi cánh cửa như mở ra một điều gì đó mà độc giả hằng trông đợi.

Phố Khuất Duy Tiến đêm 23 - 9 - 2024

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm