TIN TỨC

“Sa Mộc” – Trường ca mang thông điệp về những giá trị dân tộc

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-10-07 13:12:19
mail facebook google pos stwis
1126 lượt xem

Ngô Đức Hành

Năm 2016, Thiếu tá, nhà văn Phạm Vân Anh xuất bản trường ca “Sa mộc”. Trường ca này đã được trao giải Nhì cuộc vận động sáng tác về đề tài liệt sĩ và người có công năm 2017 và cuối năm 2020, trường ca này tiếp tục đạt giải Ba tác phẩm văn học viết về biên giới hải đảo của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 2022, “Sa mộc” lại một lần nữa ra mắt độc giả với phiên bản song ngữ Anh - Việt do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Bản dịch tiếng anh do dịch giả trẻ Võ Hoàng Long chuyển ngữ. 

Bìa tập trường ca Sa Mộc, phiên bản song ngữ Anh - Việt

Thiếu tá, nhà văn Phạm Vân Anh là người đa tài. Vừa là nhà báo, nhà biên kịch điện ảnh của Bộ đội Biên phòng (tiền thân là Công an nhân dân vũ trang) vừa là nhà thơ, dịch giả và nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian. Khi mới 23 tuổi, chị ra mắt thi phẩm đầu tay "Tôi chào tôi" và đã đạt giải thưởng của Hội Liên hiệp các Hội văn học - nghệ thuật Việt Nam. Các năm tiếp theo, chị lần lượt xuất bản các tập thơ “Mùa tình”, "Góc", truyện ngắn "Khúc quân hành lặng lẽ", "Ngón hoa", bút ký "Đường biên cương dệt mùa xuân", “Những người phất cờ hồng”, “Binh pháp chống dịch”, “Theo dấu phù sa”, “Dặm dài Tổ quốc” cùng các công trình nghiên cứu văn nghệ dân gian như "Tam cúc điếm" và "Ca trù xứ Đông"...

Phạm Vân Anh qua hình tượng cây sa mộc cứng cỏi, uy dũng nơi núi rừng biên cương làm biểu tượng cho lực lượng Bộ đội Biên phòng. Hay nói cách khác, đó là một hình ảnh ẩn dụ để ca ngợi những người lính biên phòng đang ngày đêm bảo vệ vững chắc biên cương, hải đảo; chủ quyền, quyền chủ quyền lãnh thổ quốc gia từ rừng tới biển:“...Dặm dài miền dã sử/ Gặp những thân cây độc hành xẻ đá sinh sôi/ Vạm vỡ tiêu binh miền phên dậu/ Khảm trời xanh chí khí quật cường/ Sa mộc gom gió thành lời yêu khiến lòng núi, lòng người thôi khắc khoải” (Sa mộc)

Trường ca “Sa mộc” gồm 7 chương, gần 1.000 câu thơ. Tại sao chị viết 7 chương? Điều này hẳn có ý nghĩa về tâm linh. Theo quan niệm triết học Đông phương thì số bảy là con số biểu trưng cho sự hoàn hảo nhiếp thâu cả vũ trụ. Nó được xác lập trên bảy nguyên lý của thời gian và không gian. Vì thế con số 7 đã gắn liền ý nghĩa với sự hình thành và phát triển của nhân sinh và thế giới trong vũ trụ quan qua tầm nhìn Phật Giáo. Còn theo thánh Kinh, thì Thiên Chúa là đấng đã sáng tạo ra vũ trụ muôn loài trong sáu ngày và ngày thứ bảy Ngài nghỉ ngơi. Truyền thống của người Do Thái giáo thì cho rằng, số bảy là con số thông minh và do đó họ đã có bảy ngày Thánh lễ lớn trong năm...

Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, khu vực Đông Nam Á, ven biển Thái Bình Dương. Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Căm-pu-chia ở phía Tây; phía Đông giáp biển Đông. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, do sớm nhận thức vùng biên giới là "phên giậu", bờ cõi, tiền tiêu của Tổ quốc, là nơi địa đầu, hiểm yếu, có quan hệ sống còn đến an nguy và sự phát triển của đất nước, của dân tộc, nên bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh biên giới quốc gia luôn được ông cha ta coi trọng không một phút lơ là, khinh suất.

Biên giới quốc gia là thiêng liêng, gắn liền với giá trị độc lập tự do của dân tộc, đất nước, có vị trí chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nên cần phải được quản lý, bảo vệ chặt chẽ. Các triều đại phong kiến Việt Nam đã bố trí quân lính, đóng đồn, trại, tổ chức canh giữ trấn ải biên giới cẩn mật. Vua Lê Thái Tổ đặc biệt quan tâm đến "kế cửu an" cho xã tắc nơi biên giới và thường nhắc nhở con cháu "lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy". Về sau, vua Lê Thánh Tông đã căn dặn tướng sĩ: "Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được... Nếu người nào dám đem một thước núi, một tấc đất đai của Thái Tổ để lại để làm mồi cho giặc, người ấy sẽ bị trừng trị nặng”.

Từ cổ chí kim, từ các triều đại phong kiến đến nay, “một thước núi, một tấc sông” biên giới quốc gia thấm máu biết bao thế hệ, đặc biệt để bảo vệ biên giới phía Bắc và chủ quyền và quyền chủ quyền biển đảo. “Đất nơi này không thể mất/ Cho kẻ giành sông giật núi đã quen”; “Giặc đến đây mưa chuyển thành giông tố/ Nắng bạc nắng vàng hóa lò sấy thiên nhiên”, (Sa mộc).

Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, biên giới quốc gia là hết sức quan trọng. Người chỉ rõ “Miền núi chiếm hai phần ba tổng số diện tích nước ta... Miền núi có tài nguyên rất phong phú, có nhiều khả năng để mở mang nông nghiệp và công nghiệp. Những điểm đó nói rõ rằng miền núi có một địa vị cực kỳ quan trọng về kinh tế, chính trị và quốc phòng của nước ta”. Xuất phát từ ý nghĩa đó, Người nhấn mạnh đến việc bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ phên dậu nơi cửa ngõ: "Giữ nhà mà không giữ cửa có được không? Kẻ gian tế vào chỗ nào trước? Nó vào ở cửa trước”.

Phương lược nổi bật là coi "sức dân như nước" và lấy đó làm quốc sách để "phòng bị biên sự" lâu dài. An ninh biên giới thời nay, khác xưa, đã bao gồm một khái niệm rộng lớn; không chỉ là bảo vệ “cột mốc” mà còn đấu tranh chống các loại tội phạm xuyên quốc gia như buôn lậu, nhất là buôn lậu ma túy các loại; buôn bán người; kiểm soát, phòng chống dịch bệnh. Lực lượng nòng cốt là ở mặt trận này là Bộ đội Biên phòng. Trong trường ca “Sa mộc”, hình ảnh người lính biên phòng được nhà thơ Phạm Vân Anh khắc họa: "...Con gặp lại tuổi bình minh trong lớp trẻ hôm nay/ Những mười chín đôi mươi, những non tơ khát vọng/ Quân hàm xanh/ Lấp lánh sao trời sau phiên gác/... Lũ chúng con/ Cầm mùa trăng đi qua phù sinh/ Cầm tuổi mình đi qua chiến tranh/ Lớn vội vàng cho thanh tân Tổ quốc/ Hát bài ca cánh võng/ Sa mộc treo vầng trăng khuyết tuổi giữa đêm rằm". (Sa mộc)

Trong ngày thành lập lực lượng Công an vũ trang nay là Bộ đội biên phòng (3/3/1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị "Công an và Bộ đội phải cảnh giác, phải biết trấn áp kẻ địch bên trong và bên ngoài... là nhiệm vụ mà quân đội và công an phải dựa vào nhân dân mới hoàn thành tốt được... Khi tổ chức được nhân dân thì việc gì cũng làm được". Nhân dân là chủ thể của sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia, điều đó được khái lược qua những câu thơ: "...Trên dọc dài đất nước đã qua/ Núi uốn thang mây nhớ những đôi vai chung chiêng địu đá sỏi dựng cột cờ vạn thủa/...Nghìn năm trổ cửa hướng biên cương/ Mỗi nếp nhà một chồi canh đứng đợi/Đêm biên thùy ký thác hừng đông" (Sa mộc)

Đọc “Sa mộc” xúc động với tình cảm quân dân nơi biên cương. Hàng ngàn năm nay, cho đến hiện nay, bà con các dân tộc luôn sát cánh cùng người lính biên phòng, bọc đùm nhau qua biết bao nhiêu biến cố. “Mẹ nhìn trời biết nơi con trở rét/ Nén hương xa.../Không kịp ấm lạnh gần/ Chim Khảm Khá mổ hạt cườm lích chích/ Đậu rồi bay trên sương tuyết chốn con nằm”, (Sa mộc). Với người bính Biên phòng đã hy sinh, nằm lại biên cương thay “cột mốc” cho đến những người đang làm nhiệm vụ, người mẹ ở hậu phương và người mẹ các bản làng đều lo lắng, xa xót.

Biên giới, biên cương thì luôn gắn liền hình ảnh lính Biên phòng. Hình ảnh người lính trấn gác biên cương ấy, ngày nay được Phạm Vân Anh diễn đạt khái niệm này vừa hào tráng và bi hùng: “Lứa chúng con lớn vội lớn vàng/ Bỏ quên niên thiếu/ Quáng quàng ba lô, quáng quàng đạn pháo/ Tuổi quân chưa đầy năm đã ngược Cao Bằng, xuôi Thanh - Nghệ/ Ký ức biên cương dốc mắt chỉ rừng già…/ Lũ chúng con/ Cầm mùa trăng đi qua phù sinh/ Cầm tuổi mình đi qua chiến tranh/ Lớn vội lớn vàng cho thanh tân Tổ quốc”, (Sa mộc). Tổ quốc luôn “thanh tân” nhờ sự hy sinh ấy.

Lang thang miền dã sử/ Gọi ngàn năm mây bay/ Sa mộc đêm chốt lạnh/ Thức cùng non sông này”, đây là bốn câu thơ kết của trường ca Sa mộc. Người chiến sĩ biên phòng,  là cây sa mộc đã và đang thức cùng non sông yêu dấu. Họ đã và đang là trụ cột, cùng bà con các dân tộc đoàn kết tạo nên “rừng sa mộc”, tường thành bảo vệ Tổ quốc.

***

Nhà thơ, trung tá Phạm Vân Anh

Lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giành và giữ độc lập cho thấy, dân tộc Việt Nam đã tạo nên một nền văn hóa giữ nước độc đáo, mang những giá trị, bản sắc riêng. Các giá trị văn hóa giữ nước Việt Nam được biểu hiện dưới dạng thức vật thể và phi vật thể. Giá trị văn hóa giữ nước ở dạng vật thể, được biểu hiện ở cuộc sống và hoạt động rất phong phú đa dạng, được lưu giữ trong ý thức, tâm thức của dân tộc thông qua các di sản, di tích lịch sử, các hiện vật, di vật, bảo vật.. Giá trị văn hóa giữ nước ở dạng thức phi vật thể là những sáng tạo biểu hiện ở các di sản lý luận về truyền thống giữ nước độc đáo nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền, chống xâm lược, chống áp bức bóc lột.

Đọc “Sa mộc”, tự hào về lịch sử dựng nước và giữ nước từ ngàn năm nay của ông cha. Non sông bờ cõi Việt Nam từ miền xuôi đến miền ngược được đắp xây nên bằng xương máu của biết bao nhiêu thế hệ mà tươi đẹp như ngày hôm nay. Đặc biệt, đọc “Sa mộc” người đọc được sống trong một không gian văn hóa của người Kinh và bà con các dân tộc ít người trong cộng đồng người Việt. Truyền thống dựng nước, giữ nước đi vào sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, (dân tộc Mường), “Người Thái đánh giặc”, (người Thái), “Đam san, Xinh nhã” của người Bana, Ê đê...và biết bao sử tích truyền miệng khác. Văn hóa, theo nghĩa đó cũng là loại “sa mộc” phi vật thể bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia. Một quốc gia có thể bị xâm lăng, cũng chưa mất nước; nhưng văn hóa bị xâm lăng là mất tất cả.

Lịch sử Việt Nam đã chứng minh trong 1000 năm Bắc thuộc. Khi thực dân Pháp đến Việt Nam, chính quyền thực dân Pháp tiến hành khai hóa trên nhiều phương diện. Để dễ bề cai trị, từ năm 1869 đến 1919, Pháp lần lượt ban hành các đạo luật G.Ohier, J.Lafont, Le Myre de Villers và Albert Sarraut nhằm “diệt Hán – Nôm, hưng Quốc ngữ”, nhằm tách dân chúng ra khỏi tầng lớp Nho sĩ, cô lập Đại Nam với các nước đồng văn và quan trọng nhất là “biến những đứa trẻ Annam trở thành người ngoại quốc trên chính đất nước của chúng” (trích lời Toàn quyền Paul Bert 1886).

Để viết nên “Sa mộc”, Phạm Vân Anh chắc hẳn mất rất nhiều năm tháng nghiên cứu, tìm hiểu văn hóa các dân tộc anh em trải dài từ biên giới phía Nam, biên giới phía Tây và Tây Nam của đất nước: "...Đường núi sớm dạy ta thần thoại/ Chử Làu nắn đất khớp trời/ Chẩu Răng Dệt Pú đắp núi cao/ Chẩu Răng Dệt Phẳng đào khe sâu/ Chẩu Chục Chẩu Chao tạo nên nương rẫy/ Biết gọi ma Lô Lô cổ, ma Cờ-lao già/ Người sinh ra các hang, đẻ ra các động/... Đường rừng chiều dạy ta huyền tích/ Về quả bầu sinh ra người Xá, người Thái, người Lự, người Lào/ Vỏ bầu ít hóa người Dao, Mèo quản núi cao/ Cùi bầu vừa hóa người Tày, Nùng lo bình địa/ Hạt bầu nhiều thành người Kinh xuống khai khẩn đồng bằng/ Người Việt mình là cây chung gốc..." (Sa mộc)

Trong các dân tộc anh em, đều có văn hóa riêng về cội nguồn, ý thức và trách nhiệm bảo vệ buôn làng, biên cương kết tinh thành văn hóa dân gian, truyền miệng. Người Hà Nhì, địa bàn cư trú chủ yếu ở Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai có lời nguyện khi chết đi được trở thành cột mốc ngăn quân thù xâm chiếm quê hương. Ông Trời hiển linh biến linh hồn người Hà Nhì trở thành những cây mộc miên biên giới, khi quân thù đến những bông hoa đỏ tươi rụng xuống làm kẻ thù khiếp sợ.

Truyền thống dựng nước, giữ nước nói chung và giữ biên cương nói riêng đi ra từ huyền sử về ông Đùng, bà Đà...thấm đẫm vào ngọn nguồn từng dòng sông, núi đá điệp trùng, từng loài hoa cỏ biên cương, từng mái nhà đắp bằng đất đá Tổ tiên, trở thành sức mạnh cội nguồn, truyền thống Lạc Hồng, Thánh Gióng... Phạm Vân Anh, với tư cách tác giả trường ca, quá trình tìm hiểu cũng rưng rức xúc động: “Miền dã sử tôi qua/ Vùng đất Tổ bao sắc dân thiểu số/ Vầng trán mẹ hoài chứa ngàn huyền thoại/ Chia vào tôi tình cảm mến thương/ Tặng cho tôi món quà tri thức bản địa/ Bền bỉ chảy trong huyết quản nhân sinh/ Thêm hiểu thêm yêu/ Thêm hành trang những góc tâm hồn Việt”, (Sa mộc).

Có thể thấy, “Sa mộc” của Phạm Vân Anh là một thông điệp lớn trong “bữa tiệc” hội nhập hiện nay, khi mà không ít người đã bị “vong quốc” về văn hóa ngay trên quê hương, Tổ quốc mình.

***

Biên cương và sự cống hiến, hi sinh của quân dân biên giới bảo vệ bờ cõi thiêng liêng suốt ngàn năm lịch sử là nguồn cảm hứng chủ đạo trong trường ca Sa Mộc

Trường ca là loại hình văn học có bốn đặc điểm cơ bản: được viết bằng thơ; nội dung lớn, chia thành nhiều phần; chất trữ tình lấn át chất tự sự; cảm hứng ngợi ca trở thành điểm tựa chủ đạo và nhất thiết phải có nhạc điệu...Đọc “Sa mộc” của Phạm Vân Anh thấy rõ hơn chất trữ tình, cảm hứng ngợi ca và tư tưởng của tác phẩm được “thơ hóa” đầy thơ và âm nhạc.

Biên cương trong trường ca “Sa mộc” của Phạm Vân Anh thật đẹp, con người biên cương khí phách không khác gì sa mộc vươn thẳng từ đất, hiên ngang giữa trời. Nhưng cũng rất đỗi bình yên, thân thiện, hữu nghị: "...Những ngôi nhà lẫn vào bông cỏ mật/ Vệt hoàng hôn treo đầu đá trập trùng/ Nơi biên dã có cần chi sổ đỏ/ Vỡ ra điều giản dị/ Họ lặng thầm giữ sổ quê hương" (Sa mộc)

Sổ đỏ” với cư dân đô thị là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã và đang mang lại giàu có cho giới buôn bán bất động sản trong cơn lốc “tiền” hiện nay. “Sổ đỏ” trong “Sa mộc” là thi ảnh, thông điệp về tư tưởng. Không chỉ sa mộc là ẩn dụ của hình ảnh người lính Biên phòng; tác phẩm “Sa mộc” ẩn dụ cho tư tưởng của tác phẩm. Trong tác phẩm này người đọc còn phát hiện ra vô vàn thi ảnh ẩn dụ của một tác phẩm nghệ thuật đích thực.

 “Sa mộc” là một trường ca đậm chất về chất trữ tình. Trong trường ca nà có đầy đủ các loại hình ngôn ngữ kể chuyện, ngữ biểu cảm, đối thoại, ngữ phản tư: "... Ở nơi này tìm thấy một tình yêu/ Trong thế núi dáng sông/ Trong nhà dựng sát nhà, mái kề liền mái/ Trong vầng mặt trời ngày lại ngày giục con gà gáy sáng/ Trong con đường sắc đỏ trải mênh mông" (Sa mộc)

Sa mộc” giàu chất thơ và chiêm nghiệm suy tư. Phạm Vân Anh là một nhà văn trẻ, nhưng qua “Sa mộc” thể hiện giàu nội lực và cảm hứng nghệ thuật. Với “Sa mộc” chị đã góp phần làm hấp dẫn thêm trường ca theo chiều hướng nội tâm hoá, đáp ứng đòi hỏi “nội dung hoành tráng và cảm xúc lớn lao” của văn học nghệ thuật cũng như kỳ vọng của bạn đọc đối với thể loại trường ca./.

NĐH

1. PGS.TS. Cao Thanh Tân: Chiến lược biên cương của Lê Thái Tổ

2.  GS. Lê Văn Lan: Lời "dụ"truyền đời của vua Lê Thánh Tông
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, t.10, tr.608
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, t8, tr.151.
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1985, t. 8, tr.381.

 

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm