TIN TỨC

Tĩnh vật - Thơ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-28 07:06:05
mail facebook google pos stwis
2083 lượt xem

NGUYỄN THANH TÂM

(Đọc Ngoài mây trời đầy trống vắng, tập thơ của Đoàn Văn Mật, NXB Hội Nhà văn, 2023)



Nhà thơ Đoàn Văn Mật và tập thơ mới của anh.

 

Để nhận diện chất thơ (rộng hơn là tạng thơ, phong cách trữ tình…) của một bài, một tập, một tác giả, một loại hình, một khuynh hướng, một chặng đường thơ… là điều không hề dễ dàng.

Công việc này cần sự mẫn cảm đặc biệt (thuộc về năng khiếu - để cảm) và một tư duy khoa học vừa tỉ mỉ, cẩn trọng (để hiểu) vừa có khả năng bao quát (để đánh giá). Với những trường hợp “thường thường bậc trung” (bỏ qua thơ dở - không có chất thơ), kết quả “chẩn đoán” nhanh chóng được đưa ra, và thường là (với tôi) sau đó có thể tạm yên lòng xếp tập thơ lên giá sách. Thế nhưng, những ca khó, phức tạp thì lại khác. Phải đọc, đọc nhiều lần, với tâm thế, thao tác khác nhau, nhằm định hình được ấn tượng và gọi ra đích xác điều mà mình cảm nhận về đối tượng. Do đòi hỏi này, những tác phẩm thơ khó thường bám chặt vào trí tưởng, không dễ để yên lòng xếp lên giá sách, thậm chí, phải đặt tác phẩm trên bàn, trước mặt, để không ngừng nhìn thấy nó, suy ngẫm về nó.

Cái khó trong thơ có nhiều dạng thức. Có cái khó ở chiều sâu tư tưởng mà mình chưa đủ sức vươn tới; có cái khó thuộc về hệ thống kí hiệu, biểu tượng, ngôn từ, cách thức trình bày định dạng văn bản thơ; có cái khó nằm trong cấu trúc tầng bậc phức tạp của thi giới; có cái khó đến từ sự mơ hồ, huyền bí; có cái khó ẩn hiện trong sự mong manh, phiêu tán, không dễ nắm bắt… Ngoài mây trời đầy trống vắng của Đoàn Văn Mật (Nxb Hội Nhà văn, 2023) trong hình dung ban đầu, có nét mơ hồ xa vắng, hương thơ mỏng và chập chờn lay tỏa, vừa ngưng đọng lại thoắt biến tan, quả tình đã gieo vào tôi một thử thách như vậy.

Trước hết, xem xét ngôn ngữ thơ của Đoàn Văn Mật, ta có thể cảm nhận, thi sĩ là người kỹ lưỡng, tỉ mỉ, cẩn trọng, không dễ bằng lòng với những lựa chọn hời hợt, vội vã. Cũng vì thế, con người này không ưa mạo hiểm, phiêu lưu. Chữ trong thơ Đoàn Văn Mật được giũa mài tròn trịa, được “lựa chọn” kỹ càng và “kết hợp” đủ khéo để gói ghém được ý - tình của thi sĩ (lựa chọn và kết hợp là hai thao tác sáng tạo được nêu lên bởi R. Jakobson, trong công trình nổi tiếng Thi học và Ngữ học). Tạng chữ này rõ ràng là của “dân chuyên nghiệp”. Có thể dẫn bất kỳ bài thơ nào trong tập Ngoài mây trời đầy trống vắng để bảo chứng cho ấn tượng này (ngay từ tên tập thơ):

 giữa lẻ loi cô độc

ánh sáng vẫn tìm nhau

nhưng không ai thấy được (Cuối đường)

“Ngoài mây trời đầy trống vắng” có thể được hiểu là ngoài mây (ra), trời (chỉ toàn, chỉ có) trống vắng. Cũng có thể hiểu, (bên) ngoài mây, trời (tất cả) đầy trống vắng hoặc ngoài mây (trời), lòng đầy trống vắng… Tùy theo cách ngắt nghỉ mà chúng ta có những mệnh đề khác nhau cùng với đó là những tiền giả định phục sẵn trong trường liên tưởng của người đọc. Tuy vậy, cách bố cục, thiết kế bìa của tập thơ đã vô tình làm lộ ý tưởng của tác giả (hoặc đó là một cách đọc, cách hiểu đến từ họa sĩ). Sự cầu toàn đã can dự vào hình thức biểu đạt này.

Vậy thì, tên tập thơ trong liên tưởng của tôi là gì? Có lẽ, ý tưởng trung tâm ở đây là “trời đầy trống vắng”. Sự trống vắng bao phủ, ẩn chứa trạng thái, cảm quan của chủ thể. Hiểu rộng ra, đó là sự trống vắng của thế giới, của vũ trụ, của cõi lòng thi nhân. Mây kia, như một thực tại hữu hình có thể tri nhận (cái có - dù bản mệnh của mây là phiêu tán), còn lại chỉ là những trống vắng mà thôi.

Trống vắng có gì? Đó là nguồn cơn của ý - tình làm nên chất thơ, cũng là nguồn cơn của sự khó như hình dung ban đầu. Thực ra, trống vắng không phải là trống rỗng, không có gì. Trống vắng là cảm quan, tâm trạng, xuất phát từ chính nội tâm thi sĩ. Đồng hóa thế giới - vũ trụ vào bên trong mình hay phổ chiếu tâm cảnh lên ngoại cảnh, thi sĩ bày tỏ sự trống vắng của cõi lòng. Xuyên suốt tập thơ là một cái nhìn vừa thảng thốt, vừa ngơ ngác trước những mong manh của hình, của bóng, của hương. Những thực thể ấy là cội rễ của giá trị sống, thế nhưng, trong trạng thái mong manh, mọi thứ dễ trượt trôi và tan biến. Thức nhận điều đó, chủ thể trữ tình lại càng ngơ ngác, thảng thốt:

bóng em

bóng cây

rờ rợ trên đường

anh đến sao ngại ngần chân bước

 

sợ làm tan chiếc bóng

sợ làm lay chiếc bóng

sợ làn hương bay đi

 

anh đứng từ xa

anh ngóng từ xa

chớp xuống gặp bóng mình đơn lẻ

 

anh đợi từ xa

anh ngóng từ xa

ngước lên chạm vầng trăng lặng lẽ. (Bóng)

Trống vắng có tất cả. Có anh, có em, có tình yêu - hạnh phúc và những lo âu, có mẹ cha và quê hương, có ngôi nhà và những con đường, có những mùa hoa, có những làn hương, có sự sống và cái chết, có những bộn bề nông nổi và cả những điều sâu xa cao cả, có những điều thực và không thực, có những thứ đã biến tan thành hư ảnh, có những tháng năm dằng dặc, lại có cả những khoảnh khắc cứ kéo dài bám riết vào tâm can… Hóa ra, cái mong manh thoáng chốc vụt dâng đầy trong đáy mắt là kết quả của một quá trình nhìn ngắm, chiêm nghiệm lâu dài. Thơ ở đó như là vọng âm, ngân lên sau tiếng thở dài đã cố nín vào trong:

anh muốn nhìn em lúc này

cùng những điều anh chưa từng thấy

khi tuổi trẻ sẽ không về lại

chỉ giấc mơ là thành thực với mình. (Lúc này)

Nhưng, nếu chỉ thấy trống vắng như một trạng thái, cảm quan, thì dường như ta đã bị đồng hóa vào vũ trụ ấy. Nhập vào thi giới để cảm, để hiểu, nhưng phải thoát ra, lùi lại phía sau để quan sát, mới vỡ lẽ, trống vắng kia chỉ là hình hài của một nỗi cô đơn - một cô đơn tự mình. Đứng trước đời sống, chủ thể luôn bị ám ảnh bởi những biến tan có thể xảy đến. Lo âu, sợ hãi làm nên cô đơn. Xem ra, phẩm tính ấy là đặc trưng của những người lãng mạn:

có ai nói mùa thu đang chết

giữa vô vàn khoảng trống

một bông hoa vừa rời khỏi cuống

cánh tàn lay trăng đêm xa

 

nhưng triệu bông cúc ma

lại bắt đầu nở rộ

khoác lên những mùa di tịch

theo một nghi lễ:

sinh ra cũng bởi cô đơn. (Mùa di tịch)

Gốc rễ của trống vắng là cô đơn, nhưng dưỡng chất của cô đơn lại là những bất an, lo âu và sợ hãi. Tâm thế định hình tư thế, bởi vậy, ta bắt gặp một người ngơ ngác, cứ ngước lên với ánh nhìn thảng thốt. “Ta sinh ra cô đơn/ giờ cô đơn đã cũ” (Nguyễn Bình Phương), chỉ có nỗi bất an là luôn mới, vì mọi thứ vẫn hiển hiện trước mắt, vẫn chuyển chảy trong thân tâm. Gắn bó như hình và bóng, đẹp như làn hương, cao cả như lẽ sống, ấm áp dịu dàng như hạnh phúc… rồi cũng sẽ biến tan đi mất. Càng đẹp, càng thiết tha gìn giữ, khao khát, lại càng gợi lên nhiều âu lo:

bông hoa mùa thu vẫn đấy

đêm nay đã héo mất rồi

tôi giấu điều gì cho tôi

 

tôi giấu tôi vào đêm

một ngọn đèn mười năm chưa tắt

mười năm soi cùng khuya khoắt

không sao rõ mặt một người. (Vắng)

Tôi muốn gọi Ngoài mây trời đầy trống vắng là “Tĩnh vật - Thơ” bởi những khoảnh khắc ngưng đọng trong không gian thẩm mĩ của tác phẩm. Dẫu thế nào, nghệ thuật vẫn luôn là sự tự biểu hiện, mang dấu ấn bản sắc chủ thể. Tính ngưng đọng của thơ Đoàn Văn Mật trong tập này thể hiện ở sự im vắng, ít xao động của ngoại cảnh. Khẽ khàng thôi để giữ lấy hương thơ như là nhung tuyết của lời, như là những thân thương quyến luyến còn phảng phất trong ký ức của hình và bóng, mỗi bài thơ là một khoảnh khắc tĩnh đọng. Nhưng, khi đặt trong tổng thể, những khoảnh khắc lại kết liên với nhau làm thành một chuỗi ưu tư. Thế nên, tĩnh ở bề mặt, ngưng đọng ở hình thái mà thực ra lại là động. Cái động ở thẳm sâu của những nghiệm suy về tồn tại và giá trị. Lựa chọn “an lạc” giữa bất an định hình tư thế trữ tình, tỏ bày thái độ, giọng điệu, góp phần biểu đạt tư tưởng nghệ thuật của Đoàn Văn Mật. Lặng lẽ âu lo, lặng lẽ chất vấn, lặng lẽ thương yêu, lặng lẽ quan sát, lặng lẽ đợi những mùa lá mới trong hi vọng trắc ẩn, đó chính là phong cách trữ tình chủ đạo trong tập thơ Ngoài mây trời đầy trống vắng. Có thể mường tượng ra, trong lời thơ, những sắc thái của giọng, thủ thỉ, nhỏ nhẹ, dần nghiêng chìm vào im vắng:

mười năm mơ một ngôi nhà

đựng vừa tiếng trẻ

im lặng vẽ từng cánh hoa

đêm vừa mở làn hương thật khẽ

 

một bầu trời đơn lẻ

sáng lên từ những nhỏ nhoi. (Vẽ một người)

Ý - tình - giọng - chữ trong thơ Đoàn Văn Mật không giục ta “tuốt kiếm, vẩy áo” dấn thân để cải tạo hoàn cảnh sống theo lý tưởng của mình. Ngoài mây trời đầy trống vắng níu ta lại, nhủ ta ngồi xuống, nhìn và ngẫm nghĩ về cuộc đời - một cuộc đời với tất cả dáng vẻ miệt mài, mong manh, thực và ảo, ồn ã và tĩnh đọng của nó. Tất cả rồi sẽ tan biến, nhưng sau hết, ta biết thế mà vẫn không ngừng yêu thương cuộc đời, bằng những thoáng chốc, nhỏ nhoi của hiện hữu. Năng lượng thanh tẩy của tập thơ khá cao. Đó là dấu ấn đặc biệt mà tôi tin rằng, người đọc cẩn trọng, với nhiều ân iu trìu mến sẽ nhận ra. Đọc một bài thơ là ngắm một bông hoa. Đọc nhiều hơn một bài thơ là thưởng lãm một làn hương. Đọc cả tập thơ là chiêm nghiệm về sự hiến dâng của cái đẹp. Năng lượng thanh tẩy sinh ra trong lặng im trống vắng như thế. Đó là cách Đoàn Văn Mật ứng xử với cuộc đời, ứng xử với nghệ thuật. Và hẳn nhiên, dưỡng chất vô hình mà ta gọi là “chất thơ” chính là hương của nguồn mạch thanh tẩy ấy. Ai cũng nhìn thấy tĩnh vật, nhưng chỉ những ai dừng lại với lòng trắc ẩn mới nhận ra những tự tình nơi tĩnh vật.

Nguồn: Văn nghệ số 33/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm