TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • “Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật

“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-01-29 07:55:28
mail facebook google pos stwis
1375 lượt xem

MAI NAM THẮNG

Bàn về đời sống phê bình văn học, nghệ thuật (VHNT) hiện nay, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, nhưng nhiều nhất là những ý kiến cho rằng: Đời sống phê bình VHNT ở nước ta hiện nay đang bị chi phối bởi phê bình nghiệp dư trên báo chí và mạng xã hội. Bởi vậy “Phê bình nghiệp dư” hay “phê bình không chuyên” cũng thường được gọi là “Phê bình báo chí”. Đó thường là phê bình của các nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, sinh viên, nghiên cứu sinh, độc giả… và hiện nay thêm các facebooker, bloger… là những người quan tâm đến VHNT.

Lâu nay nói đến “Phê bình nghiệp dư” hay phê bình báo chí thường hàm ý không tin cậy; cho rằng đấy là phê bình của những người “tay ngang, ngoại đạo”. Thậm chí đôi khi trên một số diễn đàn, người ta công khai phê phán, coi đó là “vấn nạn” của hoạt động phê bình VHNT hiện nay và kêu gọi phải phấn đấu hạn chế, xóa bỏ lối Phê bình nghiệp dư - Phê bình báo chí để chấn hưng “dòng” phê bình hàn lâm chính thống. Trong khi “Phê bình nghiệp dư” đang hiện hữu như một thành phần tất yếu và đắc dụng của hoạt động phê bình VHNT nói riêng và đời sống VHNT nói chung. Thực tế hiện nay, việc đánh giá một hiện tượng VHNT, một vấn đề về nội dung hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể, hoặc là một xu hướng mới của đời sống VHNT, chủ yếu dựa là vào các nhà báo và các nhà phê bình nghiệp dư. Tuy “nghiệp dư” nhưng thời gian qua, nhiều hiện tượng VHNT được báo chí phát hiện và cổ vũ đã khẳng định được sức sống và chỗ đứng của mình. Nhiều tài năng trẻ nhờ báo chí phát hiện, khích lệ mà tiếp tục phát triển bền vững. Nhiều thể nghiệm nghệ thuật đã được ghi nhận và có tác dụng tích cực trong đời sống VHNT. Đồng thời, hoạt động của phê bình báo chí còn góp phần định hướng dư luận; rung những hồi chuông cảnh báo trước những vấn đề, hiện tượng, sự việc đáng quan tâm để nhà quản lý và các ngành chức năng xem xét, điều chỉnh, xử lý….

Cách nay hơn 1 thập niên, trong tác phẩm Phê bình văn học - con vật lưỡng thê ấy, nhà nghiên cứu - Phê bình văn học Đỗ Lai Thúy viết: “Một nền văn học không có tiếng nói của báo chí là một nền văn học chết. Nhưng một nền văn học mà chỉ có tiếng nói của báo chí, thì cũng là một nền văn học chết, tuy rằng chết theo kiểu khác”. Nhận định đó đến nay vẫn nguyên giá trị học thuật và ý nghĩa thời sự. Thực trạng hoạt động phê bình báo chí - phê bình truyền thông đang lấn át hoạt động phê bình chuyên nghiệp – phê bình hàn lâm hiện nay, đặt ra một vấn đề đáng lo ngại về mặt học thuật. Bên cạnh những đóng góp tích cực và những đáp ứng thiết thực, phê bình văn học trên báo chí truyền thông hiện nay đang bộc lộ nhiều vấn đề cần sớm điều chỉnh và “bù đắp”. Không ít bài phê bình trên báo chí truyền thông hiện nay thể hiện sự thiếu hiểu biết về kiến thức cũng như vốn sống và khả năng cảm nhận nghệ thuật của người viết; bài “phê bình” của họ không có sự phân tích, đánh giá thấu đáo, thiếu những lập luận sắc sảo về chuyên môn, vì vậy mà người đọc thiếu độ tin cậy. Thậm chí không ít tác giả quá ảo tưởng và lạm dụng về quyền lực phán xét của cơ quan báo chí, khiến cho hoạt động phê bình trên báo chí truyền thông trở thành hoạt động có tính cửa quyền, thiếu sự trong sáng, công tâm. Đó là chưa kể không ít bài phê bình khen chê tùy hứng theo cảm tính và quan hệ quen biết; khen chê kiểu bè phái và lợi ích nhóm, khen hội đồng và đánh hội đồng, khen chê theo phong bì, phong bao và quảng cáo để bán sách… làm nhiễu loạn hoạt động phê bình VHNT và tất nhiên làm nhiễu loạn, đánh tráo nhiều giá trị cao quý của VHNT.

Trong tương quan “so sánh lực lượng” hiện nay giữa phê bình hàn lâm - chuyên nghiệp với phê bình báo chí - không chuyên, dù các bên “nặng - nhẹ” hay “ưu điểm - hạn chế” khác nhau, thì đều đang tác động lên tâm lí, thị hiếu và sự lựa chọn của công chúng VHNT; kể cả các hoạt động sáng tác, hoạt động xuất bản và quảng bá các tác phẩm VHNT. Các văn nghệ sĩ và công chúng VHNT vẫn được tiếp cận các bài phê bình trên các tạp chí chuyên ngành, các diễn đàn học thuật uy tín, các cơ quan báo chí truyền thông và mạng xã hội. Từ đó mà các cơ quan quản lý văn hóa và công chúng VHNT có được những quan điểm cụ thể - cục bộ, hay tổng quát - vĩ mô về thực trạng nên VHNT Việt Nam đương đại. Đồng thời cũng cần thấy rằng, những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đã có tác động toàn diện lên đời sống xã hội nói chung và đời sống VHNT nói riêng. Theo đó, hoạt động phê bình VHNT cũng đang vận động, đổi mới trong môi trường mới, đa chiều và đa dạng hơn với sự hỗ trợ của các tiện ích chuyển đổi số. Cùng đó, phê bình VHNT trên báo chí truyền thông sẽ được mở rộng tới nhiều chủ thể, có nhiều cơ chế phê bình và kiểu phê bình văn học nghệ thuật tồn tại.

Để nâng cao chất lượng phê bình VHNT trên báo chí truyền thông, nhất thiết phải có một sự chỉ huy thống nhất ở tầm quản lý vĩ mô; trong đó Ban Tuyên giáo Trung ương mà trực tiếp là Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương phải thể hiện vai trò chủ chốt trong việc định hướng dư luận và thống nhất tư tưởng trong hoạt động phê bình VHNT. Các hoạt động chuyên môn do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương chủ trì cần được tổ chức định kỳ thường xuyên hơn; nhất là tổ chức các cuộc hội thảo, hoặc tọa đàm trao đổi về các sự kiện/ hiện tượng VHNT đang được dư luận chú ý; tăng cường hơn nữa các cuộc đối thoại giữa lãnh đạo và quản lý VHNT với văn nghệ sĩ...

Đặc biệt, khi đời sống VHNT có những sự kiện hay hiện tượng “nổi cộm”, những “nghi án” VHNT đang được dẫn dắt bởi dư luận xã hội thì Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương và các cơ quan chuyên môn, các Hội nghề nghiệp phải có chính kiến kịp thời giúp cho các cấp lãnh đạo và quản lý có giải pháp xử lý đúng đắn, hiệu quả. Tháng 9/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14KL/TW về “Khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung”. Đây là vấn đề đã được đề cập nhiều lần trong các văn bản chính thức của Đảng ta, nhằm đề cao những cán bộ “6 dám” là: “Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám nói thật, dám đột phá sáng tạo và dám đương đầu với khó khăn thử thách”. Lao động sáng tạo VHNT cũng là một hình thái hoạt động xã hội. Bởi vậy, trong VHNT cũng không hiếm những tác giả dám nghĩ, dám viết ra những tác phẩm khác lạ, không chỉ với những đột phá về nghệ thuật mà còn có những đột phá về chủ đề tư tưởng, những dự báo gây “sốc”. Lịch sử VHNT thế giới cũng như trong nước đã từng có những “vụ án” VHNT oan sai chỉ vì tác giả có tư tưởng đi trước thời đại. Dù với bất kỳ lý do gì thì những oan sai như thế cũng là những thiệt thòi lớn cho nền VHNT nước nhà, mà trước hết là một thế hệ công chúng VHNT.

Bởi vậy, để khích lệ văn nghệ sĩ tự do sáng tác với ý thức công dân của mình, nên chăng cần lưu tâm tới chủ trương “bảo vệ những người năng động, dám nghĩ, dám không đi theo “lối mòn” trong sáng tạo VHNT. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị (Khóa VI) về VHNT ban hành ngày 28/11/1987 đã chủ trương “Tự do sáng tác cần đi đôi với tự do phê bình”. Mới đây, phát biểu tại Hội nghị nhà văn lão thành lần thứ nhất (tháng 9/2023) Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cũng khẳng định: “Đất nước và nhân dân đang rất cần những nhà văn trung thực và quả cảm”. Để thực thi tốt những quan điểm trên đây của Đảng và Nhà nước, cũng rất cần sự  “quả cảm” của các cấp lãnh đạo và quản lý tư tưởng - văn hóa.

Nguồn: Văn nghệ số 4/2024

Bài viết liên quan

Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm