TIN TỨC

Trương Nam Hương thích vùi trấu bếp của tình yêu

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-02-01 21:51:04
mail facebook google pos stwis
4094 lượt xem

Nhà văn Lê Thị Bích Hồng

Tập thơ Thời nắng xanh và những bài thơ khác (NXB Hội Nhà văn) là món quà sách đầu năm 2022 do “chính chủ” Trương Nam Hương gửi tặng. Dẫu văn chương là một nghề đầy nhọc nhằn và bất trắc như nhà thơ từng chia sẻ, nhưng Nam Hương luôn thủy chung, bền bỉ với thơ, bởi đó là con đường tìm mình và về với chính mình.

Tập thơ Thời nắng xanh và những bài thơ khác ra đời sau 14 năm (kể từ tập thơ Mini thơ xuất bản năm 2008) như đã được “ủ lửa”, được kết tinh, lắng đọng bởi những mặn mòi, trải nghiệm của nhà thơ tuổi Quý Mão trước thềm “lục thập giáp hoa”.

Nhớ hồi 2017, nhà thơ Trương Nam Hương từ TP.HCM xuống Vũng Tàu thăm đoàn nhà văn Hà Nội dự Trại sáng tác. Buổi giao lưu ở biển bao cảm xúc khó quên. Chúng tôi tự nhận nhau là “F1” – khái niệm vui chỉ thế hệ 6X, 7X hợp huyết từ cha mẹ tập kết ở hai miền Nam - Bắc. Tôi và Hương đều có ba tập kết từ Huế, cùng gốc Huế quê nội, Bắc Ninh quê ngoại, cùng sinh ra ở miền biển. Nam Hương sinh năm 1963 ở Hải Phòng gắn cả tuổi thơ với Hà Nội. Tôi sinh ở Hạ Long rồi về Hà Nội định cư. Sau khi miền Nam giải phóng (1975), cậu bé Hương theo gia đình vào Nam. Cũng năm đó cô bé tôi vừa rời khăn quàng đỏ đã lặn lội đưa cậu em 9 tuổi về Huế tìm quê nội…

Đã tưởng “Quan họ ở chúng em ra về”, hẹn “đến hẹn lại lên” khép lại màn giã bạn ở Vũng Tàu đê mấy… nhưng cả đoàn bất ngờ, xúc động khi vợ chồng Nam Hương ra sân bay Tân Sơn Nhất tiễn đoàn ra Hà Nội.

Tranh chân dung Trương Nam Hương

Duyên thơ tụ kết các miền quê hương

Tôi tìm thấy trong thơ Trương Nam Hương yếu tố địa văn hóa, giao thoa các miền quê cố đô Huế - Kinh Bắc - Thủ đô Hà Nội- phương Nam. Anh đã nói hộ tuổi thơ của nhiều người, trong đó có tôi “Tuổi thơ con lấm láp bãi bồi/ Cho chuồn ngô cắn rốn/ Tưởng sông Hồng hẹp hơn”; là “Trong giấc ngủ của con/Đỏ rát rời đạn lửa…/Không có bà Tiên, cô Tấm/ Chỉ có u u những hồi còi báo động…”.

Thời nắng xanh và những bài thơ khác là tập thơ thứ 11 sau gần 32 năm Nam Hương trình làng tập thơ Khúc hát người xa xứ (1990). Mỗi tập thơ thể hiện nỗ lực sáng tạo định hình phong cách Trương Nam Hương không dễ lẫn. Rất tự nhiên, anh đã tự định vị vùng văn hóa như “chốn đi về”. Thơ anh ký thác muôn mặt cuộc sống, tình yêu, gia đình, bạn hữu, sự chiêm nghiệm… được viết bằng trái tim đa cảm, bằng ngôn ngữ thơ trong sáng, thuần khiết, tinh tế, nhẹ nhàng, sâu lắng…

Văn hóa dân tộc là nguồn cội cho người sáng tác. Nhưng khai thác nó lại tùy thuộc vào tài hoa của người cầm bút. Thơ Nam Hương hút mỡ màu mạch nguồn văn hóa các vùng miền để tạo nên sản phẩm thơ rất riêng, độc đáo.
 

Tập thơ “Thời nắng xanh và những bài thơ khác” của Trương Nam Hương

Tập thơ hiện lên nhiều hình ảnh thân thương của làng quê Bắc Bộ với hoa xoan, hoa gạo, trúc, bánh đa, bánh đúc…Điểm tựa thơ anh là nguồn văn hóa dân gian chảy trôi, là tinh hoa các vùng quê tụ kết. Câu “gừng cay muối mặn” đã được anh đưa vào thơ nhuần nhị “Trăm năm mặn muối cay gừng cũng EM” (Khúc em). Câu ca dao “Gió đưa cây cải lên trời…” thấm bện vào thơ “Bà ơi cây cải lên trời/ Rau răm cay đắng phận người đắng theo” (Thời nắng xanh). Những câu ca quan họ nhuyễn nhòa đan dệt thơ “Ơi trúc xinh này, em ở đâu/ Về thương anh dạm ngõ sông Cầu” (Ngỏ với trúc xinh);“Bèo dạt mây trôi lại xót lòng…Sông Cầu buông dải thắt lưng ong” (Câu hát ấy); “Mưa Giêng ướt câu Quan họ/ Dải khăn hoa lý ơ hờ” (Thương câu hát cũ). Truyền thuyết Chử Đồng Tử trong câu thơ liêu trai “Giấu mình dưới cát tưởng yên/ Gáo em chưa dội đã nguyên…hình hài” (Chử Đồng Tử).

Gợi từ câu ca “Gối lụa không mềm bằng gối tay em”, nhà thơ sáng tạo nên câu thơ trong trẻo, lãng mạn: “Hai chỗ ngả đầu yên ả nhất/ Cỏ với vai em những lúc buồn” (Cỏ và em). Tiêu chí phụ nữ đẹp “mắt lá răm” nhuyễn hòa vào thơ “Em tiễn cái nhìn đau cả gió/ Chiều chớp đầy anh…mắt lá răm”…

Rời Thủ đô “hành phương Nam” đã gần nửa thế kỷ, nhưng hồn thơ Nam Hương vẫn luyến lưu, dăng mắc về phía cố đô Huế - quê cha, miền Kinh Bắc – quê mẹ, Hà Nội – có tuổi thơ “dù có đi bốn phương trời”.

Ký ức tuổi thơ ám ảnh. Miền Kinh Bắc quê mẹ trở đi trở lại trong thơ “Tuổi thơ mót gió trên đồng/ Giấc mơ vun vùi trấu bếp” (Hoa gạo); là “nùi rơm nhọ bếp”, là “Tuổi thơ em dế nhũi cua còng”, “Tuổi thơ ơi gọi mãi không đầy” (Bóng quê)…

Tuổi thơ trong trẻo, hồn nhiên ấy có người bà tảo tần khuya sớm: “Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau/ Chở sớm chiều tóm tém/ Hoàng hôn đọng trên môi bà quạch thẫm/ Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài”. Có sự day dứt không quên: “Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình” những “rau má, rau sam” để “thành bát canh ngọt mát” của bà. Hình ảnh bà “Chân bấm lên rêu/ Bà tôi gánh cả gió chiều - xót xa…/ Tôi chạy theo bà đòn tre kẽo kẹt/ Tiếng chim gù khuất khuất/ Bóng làng xa”. Và nhà thơ vùi mình an yên trong miền ký ức: “Tôi như thể chú mèo dim dim mắt/ Trong lòng bà tro trấu thật bình yên” (Thời nắng xanh)…
 

Nhà thơ Trương Nam Hương cùng các bạn văn năm 2017

Tuổi thơ dăng bện “Mùa Xuân theo mẹ lên chùa/ Oản, xôi hóng nhận – chuỗi, bùa hóng đeo/ Mẹ quỳ, tôi nép quỳ theo/ Lạy từ ngọn cỏ lạy veo tới trời” (Tuổi thơ);“Mẹ nuông ấm đời con bằng Quan họ/ Thuở trúc xinh gọi chú ớt ơi à” (Nhớ sông Mẹ); “Mẹ nhìn chớp bờ đê nhoáy nhóa/ Lặng ngước về Kinh Bắc hồi lâu” (Hồi tưởng)…Anh tự bạch bị ký ức tuổi thơ ám ảnh “Gột vết bùn cõng ký ức trên lưng” (Mơ về).

Trương Nam Hương sống nặng tình nghĩa, nặng ký ức, hồi tưởng. Dẫu đi đâu, anh vẫn thiết thao miền Quan họ: “Có chở dùm Quan họ theo không…Kinh Bắc níu tháng ngày son trẻ/ Mẹ xuống đò nhận đắm thời xanh” (Hồi tưởng). Là nơi ấy “Tháng Giêng hoa xoan rơi vụng dại” (Lỗi hẹn với sông Cầu)…

Chỉ 12 năm sống ở Thủ đô mà thao thiết cả đời. Anh nói giọng Bắc, thích vẻ Hà Nội trầm lắng, suy tư. Là Hà Nội hào hoa với bốn nét phác thảo: “Mặt hồ giữa phố như nghiên mực/ Sông thảo hoa văn một nét rồng/ Hoa sữa thơm nồng trên giấy điệp/ Bốn mùa thao thức tuổi rêu phong”. Giữa Sài Gòn, nhà thơ vẫn hoang hoải tháng Giêng: “Gặp một Sài Gòn thật lạ/ Mưa Xuân đất Bắc vương vào/ Anh mời heo may ghé quán/ Gọi cà phê nhớ xôn xao” (Lời mời tháng Giêng). Gặp bình cúc họa mi thấy“Sài Gòn bất chợt tinh khôi…Bên em anh gọi một ly gió mùa” (Vào quán với cúc họa mi)…

 

Nhà thơ Trương Nam Hương (thứ 2 phải sang) tiễn các nhà văn ở sân bay Tân Sơn Nhất (2017)

Nhớ Hà Nội là nhớ heo may ngọt“Gửi anh một chút heo may ngọt” (Nhắn),“Mùa nhắc heo may ghé cửa phòng” (Giao mùa); “Heo may dầm sấu” (Về lại)… Anh thích nhâm nhi cà phê kiểu Hà Nội: “Cà phê đắng những vỉa hè Hà Nội” (Tặng những mùa xưa);“Cho tách cà phê thấm vị buồn/ Không nhớ bao lần anh hỏi nhớ/ Tây Hồ em khuấy có lên sương” (Nhắn);“Cà phê khuấy mãi chưa tan nhớ”(Mùa gọi).Hay: “Tạ ơn Hà Nội trọn đời/ Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo”(Một thời Hà Nội)...

Trong Nam Hương có dòng máu Huế “Con từ xa Huế sinh ra…Con thương với Huế câu thơ lụy tình/ Chênh vênh quá nửa Ngự Bình/ Huế cho con cả cung đình rêu phong”. Trong tên anh có dòng sông quê “Con cùng tên với dòng Hương/ Thơ con trắc ẩn cánh buồm, cha ơi” (Lời thưa). Huế tổ quán trong anh máu thịt: “Anh mượn màu rêu Huế để yêu em…/Anh mượn màu nắng Huế để thương em” (Màu Huế). Nam Hương trải lòng mối ân tình bởi “Trong tôi có chút sâu đằm/ Của Kinh Bắc với thâm trầm Cố đô/ Sông Hồng hắt đỏ lên thơ/ Tôi buông lục bát xanh bờ Hương Giang”; và cất tiếng gọi: “Ơi sông Hương, hỡi sông Hồng/ Giọng tôi lạc giữa mênh mông nỗi buồn” (Gửi hai dòng sông quê)…

Cách làm mới ngôn từ của Trương Nam Hương
Thơ Nam Hương có nhiều câu thơ trong một dòng thơ: “Bờ đê. Đêm ấy/ Sóng. Trăng. Cỏ mềm” (Sông 17 tuổi); “Đêm. Từng đêm. Ngồi nhớ quê, buồn!” (Gửi một người xa)…Đặc biệt, cách ngắt câu trong dòng thơ lục bát “Nhớ lim dim phố đuôi mày xếch. Trăng…” (Trăng phố) quả là độc đáo!
Trương Nam Hương còn sáng tạo những từ láyđặc sắc tài hoa làm câu thơ giàu giá trị biểu cảm: “Sáng nay trời đất ngây ngoai quá” (
Giao mùa); “Những mộ cỏ đầu gà ngúc ngắc” (Thời nắng xanh); “Nếu không em nữa sông lơ lạc” (Khúc em); “Buồn từ lơ lắc nghiêng đâu cũng buồn” (Hoa lau),“Loăn thoăn đồng đất tối ngày”, “Thun thăn váy lá bỏ bùa ai đây” (Trăng phố),“Cỏ may giăng vấp víu áo quần…Mẹ nhìn chớp bờ đê nhoáy nhóa” (Hồi tưởng)…
Đặc biệt từ “xanh” – vốn là tính từ chỉ màu sắc được nhà thơ sử dụng với tần suất lớn (khoảng 45 lần) trên cơ sở sáng tạo chuyển đổi các lớp nghĩa: “Tùng thắp xanh trời vạn nén thơm” (
Lên Yên Tử), “Cỏ mềm xanh tốt trái tim” (Khoảng lặng), “Biển nhắc thu về giọt máu xanh” (Khúc em), “Cha đi về phía xanh lời cỏ hoa” (Dâng cha), “Anh với sông Cầu xanh ở lại” (Lỗi hẹn sông Cầu), “Anh xanh với Huế suốt chiều ngó sen (Nhỡ mùa sen), “Khi mắt lá xanh đằm mắt lá” (Cà phê ban mai), “Thời nắng xanh…”…
Trương Nam Hương thể hiện sự tài hoa tìm tòi, thể nghiệm, làm mới các thể thơ lục bát, thơ tự do, thơ sáu chữ, thơ bảy chữ. Thơ có dáng dấp tứ tuyệt, khuôn chữ nghiêm ngắn, nhưng luôn có độ giãn nở tung tẩy: “Từ hội Đạp Thanh đến Tiền Đường nước mắt/ Hai trăm năm sóng cỏ cuốn xanh về/ Không vớt nổi Thúy Kiều qua mực bút/ Nguyễn Du buồn sợi tóc nhuốm hoa lê” (
Nỗi niềm Nguyễn Du);“Chị vẫn mời trầu, thơ đãi khách/ Xòe tay hầu quạt thế nhân này/ Duyên chung không thắm, tình riêng bạc”. Và thật tài tình khi nhà thơ dùng từ láy sáng tạo “ngốc ngây” trong câu “Váy vén ngôn từ ghẹo ngốc ngây!”(Còn mãi Hồ Xuân Hương)…

“Trong thăm thẳm có vô thường thi ca...”

Đi qua mọi va đập cuộc sống, thơ Trương Nam Hương thường đằm sâu nỗi buồn, sự cô đơn, ẩn ức, suy tư như lời tự bạch chân thành: “Câu thơ tôi sinh thành từ nỗi cô đơn để an ủi những điều bất hạnh”. Anh nói về nỗi buồn, sự cô đơn đan trộn nhiều cảm xúc rất riêng: “Người cô đơn cả bóng người/ Lau thao thức bạc chỏm trời phơ lau/ Sâu từ thơ thẳm niềm sâu/ Buồn từ lơ lắc nghiêng đâu cũng buồn” (Hoa lau); “Ba mươi tuổi thơ anh òa giọt khóc” (Trăng mật); “Câu thơ chở chòng chành tiếng khóc” (Xa lắc mùa Thu)…Ý tưởng thơ được nhà thơ đúc kết súc tích:

Tứ như vốc hạt tình gieo xuống

Mảnh đất hồn ta chữ lặng chờ

Ngày như giấy trắng, đêm như mực

Ngọn bút khơi mầm – những luống thơ

(Ý nghĩ trên vườn sân thượng)

Nhà thơ Trương Nam Hương (thứ 2 trái sang) đến thăm các nhà văn dự trại sáng tác Vũng Tàu năm 2017

Thơ Trương Nam Hương trĩu nặng yêu thương với gia đình. Những bài thơ dành cho đấng sinh thành đọc cay cay khóe mắt: “Mẹ giờ hóa nén hương thơm đỏ/ Thương lặng nhìn con chẳng rụng tàn/ Khói thắt se vòng lo mẹ nặng/ Cõi về cong vít cả chân nhang" (Mẹ gió khuya); “Ngọn gió hay là hồn mẹ/ Mong manh bậc cửa đêm về” (Gió khuya)...Đặc biệt hình ảnh “đôi guốc” thật ám ảnh: “Đưa mẹ vào Tháp cốt/ Quay về, con bần thần/ Quên hóa vàng đôi guốc/ Lên đó Người lạnh chân”…

Đứng “Trước sông”, anh thấy “Bóng cha đáy nước/ Người khuất lâu rồi/ Vớt thương chẳng được”. Bỗng trở về câu thơ của anh: “Trong cha có một câu hò/ Trong câu hò có con đò sông Hương/ Trong sông Hương có nỗi buồn/ Trong thăm thẳm có vô thường thi ca...”.

Đi qua bao sóng gió, thơ tình yêu có lắng mặn, trầm tư, nhưng muôn đời vẫn đắm say: “Anh cúi hôn em ở thế trăng quỳ/ Em nở trên anh đóa sen hây múa”; hoặc kín đáo và mãnh liệt: “Đất trời cuống quýt khỏa xiêm y” (Trăng biển). Em là Nàng thơ: “Lặng đến cuối cơn mưa bất chợt/ Lộng lẫy sau lưng bảy sắc cầu vồng” (Cuối cơn mưa). Có hạnh phúc nào hơn định nghĩa ANH từ EM: “Anh chắc từ em anh mới anh/ Mẹ sinh anh trước để anh thành/ Nếu không em nữa sông lơ lạc/ Biển nhắc Thu về giọt máu xanh” (Khúc em).

An nhiên, tự tại một niềm với thơ tránh xa sự xô bồ. Anh thả những câu thơ bất ngờ, ngợi ngẫm khi dòng đời bon chen: “Lúc người đánh bóng tuổi tên/ Anh đi tìm hộp xi đen…đánh giày” (Không đề). Mẹ là bến đỗ mỗi khi đứa con trở về “Đứng ngoài các cuộc bon chen/ Lắng trong nước mắt muộn phiền nhân gian/ Chẳng quen khoanh dạ mặt bàn/ Về thưa ghế đẩu cơ hàn mẹ cho” (Dặn lòng).

Nguồn: https://www.thethaovanhoa.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm