TIN TỨC

Xanh nồng nàn xanh vời vợi em trôi

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-01-09 06:25:59
mail facebook google pos stwis
1561 lượt xem

NGUYÊN BÌNH

(“Đọc tác phẩm “Khát vọng xanh” của Triệu Kim Loan)

Không có mảnh nhỏ cuộc đời nào lại không mang trong mình thi ca. (Gustave Flaubert). Cho phép tôi dẫn lời một nhà văn danh tiếng người Pháp để mở đầu bài viết về tập thơ KHÁT VỌNG XANH (KVX) của nhà thơ nữ Triệu Kim Loan (TKL) do nhà XB HNV cấp phép xuất bản 2022. Đây là tập thơ thứ ba của chị sau hai tác phẩm KHOẢNG LẶNG và SUY TƯ CHIỀU vừa được ban văn nữ của Hội nhà văn TPHCM tổ chức ra mắt trong năm nay. Cũng cần nói thêm, nhà thơ Triệu Kim Loan sinh ra ở Hưng Yên, lớn lên ở Phú Thọ, tốt nghiệp ĐHSP II Hà Nội, có bằng thạc sĩ văn học và hiện đang sinh sống và giảng dạy tại TP. Hồ Chí Minh.

“Thơ là ngôn ngữ chưng cất mạnh mẽ nhất của bản thân tác giả” (Rita Dove). Thế cho nên,  KVX là bình rượu nồng nàn thấm đẫm hương vị của men đời nồng cay mặn chát mà nhà thơ, nhà giáo TKL ấp ủ trong ngôn ngữ đến thời kỳ dậy men để tỏa hương.

Bắt gặp bài thơ chủ đề của tập thơ, tôi càng thấm thía câu nói của Rita Dove khi nhâm nhi thưởng thức ly rượu quý chưng cất từ men thi ngôn sóng sánh như ly rượu bồ đào tuyệt hảo:

Nửa trăng tròn phía nghiêng đêm em khuyết

Ký tự xanh - những ký tự không lời

Em khát vọng- em một mình mật ngữ

Xanh nồng nàn xanh vời vợi em trôi…

(Khát vọng xanh)

Từ KVX, với khổ thơ trích dẫn trên, có thể khẳng định ngôn ngữ thơ TKL bắt đầu được mã hóa, hiện đại, tích hợp nhiều ẩn dụ sâu, dung lượng chuyển tải trong từng câu thơ đậm đặc, thể hiện quá trình tư duy và suy tưởng miệt mài trong sáng tác.

Có lẽ, không một thi sĩ nào mà không một lần âm thầm độc thoại trong đêm thâu, để trong giây phút tịnh thức nhận diện bản ngã, vạch miệng vết thương đo nỗi cạn sâu từ những nhát chém cuộc đời. Với TKL, nhà thơ nhận biết và bộc bạch lỡ lầm đáng tiếc làm dang dở đời mình chính là con tim thiếu nữ dại khờ ngày ấy “đã yêu thật vội”. Yêu thật vội không hề là một cái tội, và nào ngờ, trăn trở trong những đêm dài cùng “thú đau thương” ấy lại ban tặng cho chị những nét thơ đẹp lạ lùng:

Những đêm dài
Từ xa, ai gọi
Trái tim đau không tự vá nổi mình
Em đã yêu thật vội
Uống say mềm
Giọt mật của dối gian

(Độc thoại)

Đàn bà bao giờ cũng là đàn bà, đỏng đảnh ngày, đỏng đảnh đêm, đỏng đảnh cả những khi chưa  yêu và cả những khi đã chuốc lấy sầu muộn. Qua tự sự thơ, TKL tự thú chân thành, dung dị bằng những câu thơ sinh thành từ đáy sâu tâm cảm. Tôi hiểu, với tình yêu, Anh là tất cả, anh đã khua chiếc đũa thần khiến cho “em bão nổi” trở thành “em ngọn cỏ” mềm ngoan. Bằng chính trải nghiệm của mình, kể cả khi đối diện với hạnh phúc và khổ đau, TKL đã khẳng định giá trị và sức mạnh của tình yêu, như gởi một thông điệp chứng minh rằng tình cảm thiêng liêng đó đủ năng lượng để làm thay đổi cá tính phụ nữ:

Người đàn bà đỏng đảnh là em
Sáng nắng, chiều mưa, đêm về bão nổi
Nhưng tình yêu em dành cho anh lại hiền như cỏ
Cỏ thật mềm
Ru giấc anh say.

(Giấu lửa tim mình)

Tình yêu của “người đàn bà làm thơ” lại càng kì diệu hơn nữa. Nàng thơ chẳng quản đêm sâu, tháo lao với “ngàn con mắt trắng” để tìm gì ? Phải chăng câu trả lời là “một chữ xanh” đầy bí ẩn? Một chữ xanh nhiệm mầu cho trái tim lạnh lẻo bơ vơ ấm lại để hồi sinh.

Nàng thơ “Trốn vào đêm” để “đối diện với ngàn con mắt trắng”. Diệu kì quá sự biến ảo mang tính thách thức của thi ngôn trong giây phút thăng hoa. Đó chính là lúc ý nghĩ bắt gặp ngôn ngữ và thơ cất cánh bay lên. Ô hay, thay vì “một con mắt” thức trắng “ngàn đêm thâu”  thì tác gả lại hoán vị thành “ngàn con mắt trắng” thao thức cùng nhà thơ trong đêm dài đơn lẻ. Một sự đảo chiều độc đáo để nâng tầm vóc câu thơ, tránh lối mòn mà nhiều người khác đã đi qua:

Người đàn bà làm thơ

Trốn vào đêm

Đối diện ngàn con mắt trắng

Mong tìm một chữ xanh.

(Trốn vào đêm)

Càng đi sâu vào KVX, ta càng bắt gặp nhiều câu thơ đẹp với sự tìm tòi đổi mới như “Dải khăn voan như khói che đầu”. Hoặc: “Đâu thể tròn nếu khuyết nửa không anh”. Nếu nhà thơ quá cố Nguyễn Vũ Tiềm bắt gặp, tôi tin rằng ông sẽ chọn ngay vào ngàn câu thơ tài hoa. Có thể nói đây là một quá trình sáng tạo nghiêm túc và kiên nhẫn của chị, thể hiện khát vọng vươn tới phong cách thơ hiện đại, tránh lối tả chân bỡ ngỡ lúc ban đầu mà nhà thơ nào cũng phải bước qua.

Trong hành trình khám phá KVX, ta có thể dừng lại nghỉ chân bên cội thơ lục bát thấm đẫm hồn dân tộc, lại được nhà thơ cách tân theo phong cách hiện đại, mát rượi tâm hồn:

Nhớ ai
dạ cứ tần ngần
Xa
hun hút ngóng
Gần
bâng khuâng chờ

(Giải mã tình câm)

Là một nhà giáo, thơ TKL luôn vướng vất hình ảnh của sân trường, tiếng ve, phượng đỏ. Đó là những hoài niệm đẹp không thể phai mờ của một đời người tận tụy với những chuyến đò đưa tuổi trẻ qua sông. Tuy nhiên, hoài cảm của chị không rập khuôn những bâng khuâng xa vắng mà đau đáu đến “thắt lòng”:

Thắt lòng

Thương tiếng ve ngân

Xao xác chiều hè cuối hạ

Thương cây bàng

Xoè ô đứng đợi

Thương phượng gầy

Thắp lửa

Những mùa thi.

(Thương)

Thời gian cũng chạm nhẹ vào thơ TKL, để giờ đây chúng ta có được những vần thơ “đêm Nguyên Tiêu” mà thưởng lãm:

Đêm Nguyên Tiêu hạt xuân rơi nhẹ
“Chạm "Tinh sương", nỗi nhớ xanh mùa
Ô cửa nhỏ, gió lùa thật khẽ
Phút tự tình, trăng thắp lửa thiêng

(Tình thơ)

Hoặc nhà thơ đưa chúng ta vào khoảnh khắc bổi hổi của khúc giao mùa tháng tư lặng lẽ: 

Tháng tư ơi, vần thơ trở giấc

Bỗng bồi hồi ký ức xanh xưa

Vườn ai trắng nồng nàn hương bưởi

Cải ven sông, ai đón đưa người

(Lọc khúc giao mùa)

Nhà thơ TKL yêu thiên nhiên, yêu những vùng đất vùng trời tổ quốc dấu yêu nên trong thơ chị không thiếu những nét cọ ngôn từ tô thắm quê hương. Đẹp quá những câu thơ TKL dệt gấm thêu hoa cho bầu trời thu Hà Nội:

Thu Hà Nội như em

Chiều rong chơi phố cổ

Mắt lá vàng thơm gió

Khói phủ hồ Tây sương

(Thu Hà Nội như em)

Và giờ đây, qua bao trăn trở, tôi nhận ra niềm hân hoan hạnh phúc trong mỗi câu chữ tràn trề niềm tin và hy vọng. Tôi tin rằng, KHÁT VỌNG XANH  mà TKL gieo vào thơ đã gặt hái được “mùa em xanh” như lời nàng bộc bạch:

Ngày trổ nhánh, hoa cười đón nắng

Mùa em xanh, mười ngón thiên thần

Dòng suối nhỏ quấn mềm cuội trắng

Dịu dàng em - thương cả những phân vân …

(Nụ hồng cổ tích)

Còn nhiều nữa bao nhiêu mật ngôn mật ngữ tiềm ẩn trong thi tập KHÁT VỌNG XANH. Mời bạn cùng tôi khám phá khu vườn thơ đầy hương sắc của chị. Sức sáng tạo của TKL còn sung mãn, tôi tin rằng nay mai sẽ đón nhận tập thơ tiếp theo với những sắc màu mới mẻ hơn nữa.

Những ngày giáp tết, chúc nhà thơ - nhà giáo vui khỏe để tiếp tục sáng tác. Sự nghiệp văn chương của chị còn cả một hành trình dài, đồng hành cùng bao bạn thơ khắp mọi miền đất nước.

Bà Rịa, ngày 5/1/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm